Learn

The forum of documents and methods for studying - Lượm lặt kiến thức


    Xưng hô trong tiếng Việt : Sự trong sáng hay sự rắc rối?

    Bạn có đồng ý với ý kiến tiếng Việt cần có thêm hệ đại từ nhân xưng trung lập không? [2phiếu ]

    • A. Đồng ý

      150%
    • B. Không

      150%

    You are not connected. Please login or register

    QaniTri
    QaniTri
    Admin

    Nam Libra Monkey
    Tổng số bài gửi : 1609
    Tiền xu Ⓑ : 3986
    Được cảm ơn № : 6
    Ngày khởi sự Ngày khởi sự : 07/01/2013
    Đến từ Đến từ : HCMC
    Côngviệc / Sởthix Côngviệc / Sởthix : Languages, Softwares, Sciences, Martial arts

    Xưng hô trong tiếng Việt : Sự trong sáng hay sự rắc rối? Empty Xưng hô trong tiếng Việt : Sự trong sáng hay sự rắc rối?

    Bài gửi by QaniTri 24th October 2016, 11:57

    Tôi thường lấy làm lạ sao trong tiếng nói hiện hành của ta không có một thứ đại danh từ trung lập, nghĩa là không trọng, không khinh, ai nấy dùng mà xưng mình, xưng người đều được cả, như đại danh từ của tiếng Pháp: je, tu, il, nous, vous, ils; của tiếng Trung Hoa: ngã, nễ, tha, ngã môn, nễ môn, tha môn, bất kỳ hạng người nào cũng dùng một cách phổ thông, không phân biệt đằng nào là khinh, đằng nào là trọng. 
    Tôi muốn đi tìm đến tiếng nói của người Việt Nam nguyên thủy xem sao. Xưa hơn hết là tục ngữ ca dao, hoặc giả có giấu trong đó ít nhiều đại danh từ tối cổ. Thì đã tìm thấy những câu: 
     
    Đông có mầy, tây có tao. 
    Mầy bằng tao, ao bằng giếng. 
    Cha nó lú có chú nó khôn. 
    Một đời ta, ba đời hắn. 
    Đố bay con rết mấy chân, 
    Cầu Ô mấy nhịp, chợ Dinh mấy người. 
     
    Không biết còn có nữa chăng, tôi tìm được trong trí nhớ chỉ có bấy nhiêu. 
    Dầu sao tôi cũng mạnh bạo đặt ra một cái giả thuyết: Tiếng Việt Nam đời xưa, vào đời Hồng Bàng (?) chẳng hạn, vốn có đại danh từ trung lập: Số một tự xưng là tao, đối xưng là mầy, tha xưng là nó hay hắn; số nhiều: tự xưng là ta, đối xưng là bay, tha xưng tất nhiên là chúng nó. 
     
    Tôi giả định lúc bấy giờ Mỵ Nương đối diện với vua cha gọi bằng mầy, xưng minh bằng tao, gọi Lạc Hầu chồng mình bằng nó; còn bọn dân cày Lạc điền chẳng những sau lưng các quan lang gọi họ bằng chúng nó, mà ngay trước mặt cũng gọi bằng bay, xưng mình bằng ta. Ấy vậy mà mọi người đều coi là tự nhiên, không có ý gì là hỗn xược cả, vì nó là đại danh từ trung lập và phổ thông. 
     
    Nếu quả thật như thế và nếu giữ mãi được như thế cho đến bây giờ thì tiện lợi biết bao. Ngặt một điều là chúng ta chàng ngày càng văn minh ra, ăn nói càng lịch sự ra, làm cho trong tiếng nói ngày nay gọi là đại danh từ không hẳn là đại danh từ nữa, mà chỉ là một mớ xưng hô táp nham lộn xộn. 
    Cái giả thuyết trên đây không phải là không có một ít chứng cứ. 


    Xưng hô trong tiếng Việt : Sự trong sáng hay sự rắc rối? 1-f873e
     
    Trong kinh thánh người Hê-bơ-rơ viết ra bốn năm ngàn năm về trước, gọi Giê-hô-va (Đức Chúa Trời) bằng một chữ Hê-bơ-rơ đúng nghĩa là mầy. Kinh thánh bằng tiếng Pháp dịch là tu, bằng tiếng Trung Hoa dịch là nhữ, đều nghĩa là mầy cả. Riêng Kinh thánh bằng tiếng Việt Nam của Công giáo hay của Tin Lành cũng vậy, không dám dịch là mầy mà dịch là Ngài hay Chúa! Người Hê-bơ-rơ tôn kính ai cho bằng tôn kính Giê-hô-va, thế mà gọi bằng mầy, đủ biết chữ mầy ở đời xưa không có ý gì là khinh miệt cả. 
     
    Bên Trung Hoa hơn bốn ngàn năm trước, vào đời Nghiêu, Thuấn cũng thế. Trong Kinh thư, còn chép lại, bấy giờ tôi gọi vua bằng nhữ (mầy), xưng mình bằng trẫm (ta), vua đối bầy tôi cũng thế, không hề có phân biệt cách xưng hô giữa bề trên đối với bề dưới và bề dưới đối với bề trên. 
     
    Dựa vào hai cái chứng cứ chắc chắn ấy, tôi có thể giữ vững cái giả định trên kia được lắm. Vì Giê-hô-va, Nghiêu Thuấn, gọi bằng mầy được, thì Lạc Long Quân hay Hùng Vương, Lạc Hầu hay các quan lang, sao lại không gọi bằng mầy bằng nó bằng bây được? 
     
    Hoan hô đại danh từ của đời Hồng Bàng (?)! Đại danh từ của đời Hồng Bàng muôn năm! Nhưng than ôi, nó có được muôn năm đâu! 
     
    Xưng hô trong tiếng Việt : Sự trong sáng hay sự rắc rối? Thegioiphunu


    Tiếng nói của loài người cứ dần dần thay đổi, của dân tộc nào cũng thế. Tiếng Pháp, tôi không biết rõ lắm, chỉ thấy đại khái có phân biệt khinh trọng giữa chữ tu và chữ vous. Nhưng tiếng Trung Hoa, nói đúng là chữ Hán, thì cái sự thay đổi rõ ràng lắm. 
     
    Ở đời Nghiêu Thuấn, vua tôi gọi nhau bằng mầy như vậy, mà đến đời Khổng Tử đã khác rồi. Khổng Tử gọi học trò mình bằng nhĩ (bây), nhữ (mầy) mà học trò gọi Khổng Tử thì phải bằng phu tử, hay tử, nghĩa là thầy. Đến Tần Thủy Hoàng choán chữ trẫm làm của riêng, chỉ thiên tử mới được dùng nó tự xưng. Từ đó về sau, vua gọi bầy tôi bằng nhĩ, nhữ là thường, còn bầy tôi gọi vua phải bằng bệ hạ, bằng thánh thượng, còn bằng những cái quái gì nữa. 
     
    Hai ngàn năm nay, viết bằng chữ Hán, văn ngôn, nếu là bậc ti ấu xưng mình đối với bậc tôn trưởng thì chữ ngã (ta) hầu như không được dùng đến nữa. Đối với cha, con tự xưng là nhi; đối với vua, bầy tôi tự xưng là thần; đối với đàn ông, đàn bà, tự xưng là thiếp. Đại để là phải biểu lộ trong sự xưng hô cái ý kẻ ti ấu phải cúi mình sát đất đội kể tôn trưởng lên đầu. May ra trong bạch thoại, tiếng nói thường ngày của dân chúng, mới còn giữ lại thứ đại danh từ trung lập, ngã, nễ, tha, ngã, môn, nễ môn, tha môn như trên đã nói. 
     
    Cách xưng hô bị thay đổi ở nước ta cũng giống như ở Trung Hoa mà có lẽ còn hỗn tạp hơn. 
    Sự thay đổi ấy do trong xã hội càng ngày càng chia ra giai cấp. Giai cấp đây không phải tư bản và vô sản mà là thượng và hạ, tôn và ti, quý và tiện, trưởng và ấu. Và chính do cái sự chia ra giai cấp ấy chúng ta đã nhận cho xã hội càng văn minh ra, ăn nói càng lịch sự ra. 
     
    Không biết bắt đầu từ bao giờ, những người lớn kể cả xứ ta đã choán lấy chữ tao chữ ta làm của riêng để xưng mình cũng như Tần Thủy Hoàng đã choán lấy chữ trẫm. Rồi thì những người dưới kẻ bé phải tìm một chữ hèn hạ nhất để tự xưng: chữ tôi, nghĩa là tôi tớ. 
     
    Rất đỗi một mụ trùm đĩ nói với một cô con gái: 
    "Con kia đã bán cho ta, nhập gia phải cứ phép nhà tao đây". 
    "Lão kia có giở bài tây, chẳng văng vào mặt mà mầy lại nghe?" 
     
    Và cô con gái kia đáp lại: 
    "Nhưng tôi còn sá chi tôi, phận tôi đành vậy, vốn người để đâu!" 
     
    Thật là tách bạch lắm. Tao, ta là tiếng tự xưng của những kẻ có quyền làm gió làm mưa trên kẻ khác và gọi kẻ khác ấy bằng mầy; còn tôi là tiếng tự xưng của những kẻ chịu đè bẹp dưới quyền kẻ khác và phải gọi kẻ khác ấy bằng người, người đây có ý nghĩa tôn kính, ý nghĩa đặc biệt của nó. 
     
    Do đó đã nảy ra một cái thành ngữ trong tiếng Việt Nam là "mầy tao mi tớ", và đồng thời cái thành ngữ ấy cũng là cái luật xưng hô giữa xã hội chúng ta nữa. Người nào đã có quyền gọi kẻ khác bằng mầy thì tự xưng bằng tao; người nào đã bị gọi bằng mi thì phải tự xưng bằng tớ. Điều sau đây đã thông hành giữa hoàng phái ở Huế, người hoàng phái gọi kẻ dưới họ bằng mi, những kẻ này xưng mình bằng tớ. (Tớ đây tỏ ý hèn hơn tôi nữa, khác với chữ tớ dùng tự xưng ở miền Bắc). 
     
    Chữ tao, chữ ta đã trở nên hách dịch, chữ mầy phải trở nên hèn hạ, rồi những chữ nó, hắn, bay, chúng nó cũng theo đó mà trở nên hèn hạ nốt. Rốt lại, những chữ ấy chỉ dùng để xưng hô hạng người cặn bã (thấp kém) trong xã hội và loài vật như con trâu, con chó, và trong tiếng ta không còn có đại từ trung lập và phổ thông xứng với cái tên nó nữa. Chúng ta phải tạm bợ, lấy danh từ làm đại danh từ. 
     
    Những chữ như cụ, ông, bác, chú, cậu, anh, bà, cô, dì, mợ, em, cháu là những danh từ để chỉ các hạng người cùng trong huyết thống với mình, hoặc đồng thế hệ, hoặc khác thế hệ. Chúng ta đã chẳng những lấy chữ ấy trùm lên một cái tên như ông Nguyễn Du, bà Đoàn Thị Điểm, mà khi đối diện nói với ông bà ấy cũng xưng họ là ông là bà để thay cho cái đại danh từ mầy đời xưa. Vả lại phải nhìn đúng đắn bậc nào gọi theo đấng bậc ấy, nếu đáng gọi cụ mà gọi ông, đáng gọi bà mà gọi cô, sẽ có lỗi lớn. Thật là phiền phức vô cùng và rối trí người ta lắm lắm. 
     
    Đã thế mà lại còn vẽ ra thêm nhiều điều để càng phiền phức và rối trí hơn. 
    Con, chính cha mẹ đẻ ra, vì lẽ gì đó, không gọi cha mẹ bằng cha mẹ, lại gọi cha mẹ bằng cậu mợ, vợ chồng cũng gọi nhau bằng cậu mợ, đầy tớ cũng lại gọi chủ nhà bằng cậu mợ. Đối với người ngoài, ông bà nội ngoại gọi cháu mình bằng cháu, cha mẹ đôi khi đối với người ngoài cũng lại gọi con cháu nhà người ta bằng cháu. 
     
    Cùng một danh từ mà có khi trọng khi khinh khác nhau. Bọn ông nghè, ông bảng, ông cử, ông tú gọi nhau bằng anh, bằng bác, cũng lại gọi người nấu bếp kéo xe bằng anh, người thợ mộc rèn bằng bác. Nữ học sinh, gọi bằng cô, đào hát, cũng gọi bằng cô. Vợ bạn, gọi bằng chị. Đừng thấy gọi giống nhau mà tưởng là đối đãi bình đẳng, lầm chết đi đấy; thực ra thì trong đó có hai hạng anh, hai hạng bác, hai hạng cô, hai chạng chị, phân biệt rành rọt lắm. 
     
    Chỉ một chữ có thể dùng cho ba ngôi là chữ ông, xưng mình bằng ông, xưng người đối diện bằng ông; còn xưng người không có mặt bằng ông nữa. Chữ ông thứ ba này tức là ông ấy, mà khi nói ông ấy người ta thấy không được tôn kính mấy cho nên bỏ chữ ấy đi. Một điều đáng buồn cười là khi người đàn bà nổi tam bành lên cũng xưng mình bằng ông. Thật là một nồi xáo, một nồi hẩu lốn! Ở miền Trung Nam lại còn chuyển ông ấy thành ra ổng, bà ấy thành bả, rồi những ảnh, chỉ, cẩu, mở... một cách rất dễ dàng tùy tiện. 


     
    Có người nói, người Việt Nam lấy những tiếng xưng hô trong thân thuộc làm đại danh từ mà xưng hô khắp cả người trong nước như thế, là một thói tục tốt. Đó là suy rộng cái chủ nghĩa gia tộc ra trong toàn quốc, coi hết thảy người trong nước là họ hàng bà con với nhau, nhân đó càng thương yêu nhau. Thói tục tốt thì nên giữ, sao lại công kích? 


    Xưng hô trong tiếng Việt : Sự trong sáng hay sự rắc rối? Giadinh11
     
    Ta gọi bằng chủ nghĩa gia tộc đó, tức là chế độ tông pháp, cái chế độ lập ra để giữ cho chế độ phong kiến được bền vững. 
     
    Tông pháp, nói Nôm, tức là cái lề lối chia ra con trưỏng, con thứ, con chi, chi nhánh trong gia tộc, do đó lập nên cái quyền gia trưởng, tộc trưởng, những kỷ luật nghiêm ngặt trong một nhà một họ. Theo tông pháp thì hầu hết người ta không là cá nhân độc lập nữa, ai ai cũng đều là con cháu, em, thuộc dưới quyền ông, cha, anh và chú bác. Nói rằng nó giữ chế độ phong kiến được bền vững là ở chỗ đó: Vua cai trị một nước không xuể, mới lập ra chế độ tông pháp để tộc trưởng gia trưởng cai trị thay cho, mỗi khi có việc biến động gì thì trách cứ vào những người tộc trưởng gia trưởng là yên tất cả. Thực dân Pháp, năm 1930 còn đặt thêm vai trò (tộc biểu) trong mỗi họ ngoài tộc trưởng gia trưởng, để đàn áp phong trào cộng sản, là họ thông hiểu và kính trọng cái thói tục tốt ấy của người Việt Nam lắm lắm! 
     
    Do tông pháp mới có những sự mấy đời ở chung trong một nhà và đặt hương hỏa, chia gia tài, và do những sự này mới có những sự rầy rà, thù ghét, kiện cáo nhau trong gia đình. Trong khi đó thì những tiếng xưng hô thân mật trong ruột thịt với nhau như anh em, con cháu, chú bác cũng không còn có giá trị gì cả. 
    Hiện nay nước ta đang xây dựng để đi đến chủ nghĩa xã hội, thì chính bản thân cái chế độ tông pháp phải tiêu diệt đi luôn với cái chế độ phong kiến. Nếu đã là một xã hội xã hội chủ nghĩa thì cái lối xưng hô theo chủ nghĩa gia tộc cũng không thích dụng nữa. Có điều rất khó là những tiếng xưng hô ấy đã ăn sâu trong ngôn ngữ rồi, muốn cải cách, chế tạo ra cho được một thứ đại danh từ trung lập và phổ thông để thay vào, cũng còn phải mất một thời gian lâu lắm. Tuy vậy, tôi tưởng rằng chúng ta không phải không thể làm được. Hễ khi mọi người đều thấy cái lối xưng hô như thế không còn thích dụng nữa, thì tự nhiên nó bị đào thải đi mà có lối khác mọc lên, tức là đại danh từ trung lập và phổ thông. 

     
    Trên kia nói có hại cho ngôn ngữ, thế nào là có hại? 


    Xưng hô trong tiếng Việt : Sự trong sáng hay sự rắc rối? C050.1-500x500
     
    Có hại là như cứ theo lối xưng hô gia tộc, nó sẽ làm mất cái ý khách quan và bình đẳng trong lời nói hay bài văn. 
    Đại khái như ta muốn viết một cái ký sự mà thuần dùng khách quan đối đãi với những nhân vật trong đó thì khó cho đạt được cái ý ấy của ta lắm, bởi vì trong khi xưng hô những nhân vật ấy không thể nào không dùng những đại danh từ (tức là danh từ) khác nhau, hoặc cụ, hoặc ông, hoặc anh, hoặc bà, hoặc cô, hoặc chị, thế là đã phải lập định chủ quan của ta rồi. 
     
    Còn như sự mất tinh thần bình đẳng dễ thấy nhất là trong khi dịch sách nước ngoài. Một cuốn tiểu thuyết bằng chữ Pháp hay chữ Hán, trong đó người ta dùng đại danh từ một loạt như nhau, mà mình dịch ra theo lối xưng hô tiếng ta thì thành ra như có chia tôn ty thượng hạ. Tôi từng vấp phải sự khó khăn ấy. Khi dịch cái tiểu thuyết "Ánh lửa đằng trước", những chỗ cán bộ quân sự cao cấp và binh sĩ đối thoại với nhau, nguyên văn đều dùng chữ "nễ", tôi đều dịch là "anh" để giữ cho còn cái tinh thần bình đẳng. Đối xưng, làm như vậy cũng tạm được rồi, nhưng đến tha xưng, nguyên văn đều dùng chữ "tha", đáng lẽ dịch là "hắn" hay "nó" mà không dám dịch, cũng lại dùng chữ "anh" nữa. Thành ra ngôi thứ hai và ngôi thứ ba cùng chung một chữ là "anh", không phân biệt, rất là bất tiện cho người đọc. 
     
    Lại còn có khi gặp một chữ mà không biết dịch là gì cho phải nữa. Ông Ehrenburg có lần hỏi một người trẻ tuổi mới tập viết văn bằng hai câu, bảo phán đoán thử câu nào có lực lượng hơn, hai câu ấy, theo tiếng Pháp là: Je t'aime với Je t’aime beaucoup; theo ch Hán là: ngã ái n vi Ngã hn ái n. Thế thì hai ch "t’" và hai ch "n" đó nên dch là gì? Nếu dch phc đi là "my" thì đúng và tin lm, nhưng tiếng Vit hin ti không cho phép. Vậy trước hết phải biết cái tánh biệt của đại danh từ "t’" và "n" y thì mi dch được, vì theo tiếng Vit hin ti, khi đối xưng, c nhiên cũng phi mượn danh t xưng hô trong gia tc, nhưng còn phi phân bit nam tánh và n tánh. Tht là dễ bí! May còn có thể đoán mà biết được nhờ ở hạ văn. Hạ văn: người trẻ tuổi trả lời rằng cố nhiên câu thứ hai có lực lượng hơn. Ông Erenburg cười và bảo, thế thì anh đánh giá từ ngữ còn kém các cô thôn nữ. Nhờ đó, ta có thể đoán cái đại danh từ ấy là nữ tánh. Nhưng còn ngần ngại không thể dứt khoát trong ba lối dịch này: Tôi yêu cô, tôi yêu cô lắm, tôi yêu em, tôi yêu em lắm; hay là tôi yêu mình, tôi yêu mình lắm? Rắc rối thay, ba chữ "cô", "em", "mình" đó phải đặt cho đúng từng trường hợp, chứ có phải dễ đâu? 
     
    Vì những lời lẽ trên đây, tôi phải đặt vấn đế về đại danh từ tiếng Việt. Tôi tin rằng khi tiếng Việt có đại từ trung lập và phổ thông thì văn học Việt mới tiến lên mức nào. 
     
     
    Phan Khôi
    (Hà Nội, 12-1-1955)
    (Nguồn: Việt ngữ nghiên cứu- NXB Đà Nẵng, talawas.org)
    https://tnxm.net/t1396



    Tham khảo:
    - http://www.advite.com/XungHoTrongTiengViet.htm
    - https://tnxm.net/t1396
    - http://thethaovanhoa.vn/…/van-h243a-xung-h244-cua-nguoi-vie…
    - http://www.hcmup.edu.vn/index.php…
    - https://www.wattpad.com/764730-x%C6%B0ng-h%C3%B4-trong-ti%E…
    - http://www.chungta.com/…/van_hoa_trong_cach_xung_ho_nguoi_v…
    - https://caothucuc.wordpress.com/…/cach-xung-ho-cua-nguoi-v…/
    - http://www.oocities.org/quanvanchuong/hh-xungho.htm
    - http://langhue.org/…/15448-tieu-luan-xung-ho-trong-tieng-vi…
    - http://news.zing.vn/bi-hai-chuyen-xung-ho-noi-cong-so-post2…
    - http://infonet.vn/nguoi-anh-hoang-voi-ma-tran-xung-ho-o-vie…
    Phản biện
    - http://forum.gocit.vn/…/cach-xung-ho-trong-gia-dinh-viet-n…/


      Hôm nay: 26th November 2024, 06:41