Nước Việt mến yêu
[size=32]LỜI NGỎ[/size]
Trước vốn không có đường, do người ta đi nhiều mà thành đường.
LNĐ
Chữ viết là một công cụ hửu hiệu của nền văn minh nhân loại, chính vì vậy dân tộc nào cũng muốn có chữ viết cho riêng mình; Tuy nhiên có nhiều dân tộc không có hay có rồi nhưng vì hoàn cảnh lịch sử, chữ viết ấy mất đi thay bằng chữ viết khác. Theo các nghiên cứu gần đây, người ta cho rằng cách đây hàng ngàn năm người Việt đã từng có chữ viết như chữ “ Nòng nọc” chữ “khoa đẩu” nhưng tất cả đã mất đi nhường bước trước chữ Hán, rồi trong quá trình sử dụng chữ Hán, người Việt lại sáng tạo ra chữ Nôm, nhưng lịch sử một lần nữa đã biến chữ Hán Nôm thành quá khứ. Ngày nay nhiều người quan tâm đến văn hóa của dân tộc muốn phục hồi lại vị thế của chữ Hán Nôm, nhưng lực bất tòng tâm. Một trong những lý do cho việc không thể phục hồi lại chữ Hán Nôm là không đáp ứng được một trong các tiêu chí của ngôn ngữ : “Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp của xã hội” mà chữ Hán Nôm có quá ít cơ hội để có thể xuất hiện trong xã hội, nên cho dù có tha thiết đến mấy người học cũng đành gạt lệ tạ lỗi với tiền nhân mà thôi. Biết là như vậy nhưng vì mong muốn có một phương thức nào đó để tìm về với chữ Hán Nôm một cách bền vững, nghĩa là có tính liên đới trong hoạt động xã hội, tôi tạo ra chữ Nôm mới này với những suy nghĩ dưới đây .
I - LÍ DO TẠO CHỮ NÔM VN :
Tiếng Việt từ ngàn xưa đã phát triển một cách mạnh mẽ, có quy luật và tính cộng đồng rất cao, điều nay có thể chứng minh qua quá trình lịch sử của dân tộc ta. Mặc dù trải qua hàng ngàn năm Bắc thuộc, hệ thống giáo dục của nước ta phải dùng chữ Hán để làm quốc tự, tất cả văn chương có tính bác học đều được ghi chép bằng loại chữ này, tất nhiên là các tài liệu, thư tịch của Việt Nam cũng không ngoại lệ; thậm chí ngay cả vào những lúc nước nhà độc lập lâu dài nhất trong lịch sử như thời Lí, Trần chúng ta cũng dùng chữ Hán làm quốc tự. Thế mà trên thực tế, người Việt vẫn nói tiếng Việt, không những thế mà người Việt còn Việt hóa các âm Hán, sử dụng theo cách riêng của mình, mà đáng lí ra điều này phải xảy ra ngược lại mới phải; có nghĩa là chúng ta phải bị Hán hóa tiếng nói của chúng ta. Bởi vì chúng ta đã dùng chữ Hán làm chữ viết chính cho quốc gia, thì việc đồng hóa tiếng nói là điều có thể, nhất là đối với một nước có một nền văn hóa, chính trị và quân sự lớn mạnh như nước Trung Hoa, một nền văn hóa đã làm ảnh hưởng sâu đậm đối với những nước mà họ đã từng xâm chiếm. Điều ấy chứng minh cho thấy rõ ràng tiếng Việt đã phát triển có tính cộng đồng rất cao, tất nhiên một tiếng nói phát triển như thế thì chắc chắn tự nó tất phải có những quy luật chặt chẽ.
Khi đã biết như vậy thì vấn đề mà chúng ta cần phải đặt ra là:
Với một tiếng nói phát triển bền vững như vậy, tại sao không có chữ viết riêng cho mình? Liệu có phải chữ Hán đã trói buộc ông cha ta đến nỗi mất đi niềm tự hào dân tộc hay không? Hay những tiền nhân xưa kia cũng đã từng muốn tìm kiếm một chữ viết riêng cho dân tộc mình nhưng chưa hoàn thành, hay đã hoàn thành mà vì một lí do nào đó không thể truyền bá một cách rộng rãi được?.
Câu trả lời là cha ông ta luôn có niềm tự hào dân tộc, lịch sử chống ngoại xâm của chúng ta chứng minh điều đó, tất nhiên lòng tự hào dân tộc đó cũng được thể hiện qua việc tìm kiếm chữ viết cho riêng mình mà kết quả là chữ Nôm đã ra đời, không những chỉ ra đời để thỏa mãn trong giới Nho sĩ thôi, mà người Việt còn muốn dùng nó như là quốc tự, để không những thoát ra khỏi những ràng buộc về chính trị và quân sự mà cả về văn hóa nữa. Mặc dù chữ Hán được sử dụng chính thức trong giáo dục cũng như hành chánh của quốc gia, nhưng giòng chảy của chữ Nôm cũng vẫn không ngừng phát triển, điều đó đã được minh chứng qua việc trước tác thơ, phú bằng QUỐC ÂM. Như thế có nghĩa rằng vì bị ràng buộc bởi lịch sử nên chữ Nôm đã chưa đạt được sự mong muốn trở thành quốc tự, chứ không phải là người xưa không muốn hay không đủ khả năng làm chuyện ấy. Điều đáng buồn là ngày nay có người nghiên cứu, bằng đôi mắt của thế kỉ 21, soi xét và đòi hỏi chữ Nôm những tiêu chí ngôn ngữ học hiện đại, từ đó đưa ra những nhận định có í xem thường, cho là không chuẩn, thiếu tính thống nhất, mà quên đi rằng nếu không có khát vọng thì làm sao có được những áng văn thơ để lưu lại cho đến ngày nay, mà đỉnh cao là kiệt tác Truyện Kiều. Đâu lẽ một mình Nguyễn Du tự bịa ra chữ Nôm mà viết !?.
Như vậy sau bao thế kỉ trăn trở của người Việt cuối cùng đã có kết quả, đứa con tinh thần đã ra đời, đứa con này do chính người Việt sinh ra và nuôi lớn, nhưng điều không may mắn là chữ Nôm này cũng chỉ lớn lên trong giới Nho sĩ. Bởi vì nó cũng được thành lập trên nguyên tắc Lục thư của chữ Hán cho nên tính phổ biến của nó không cao. Bởi vì chữ Nôm dựa vào chữ Hán và muốn chữ Nôm xuất hiện thì phải dùng chữ Hán, nên trong nghĩa này chữ Nôm bao gồm cả chữ Hán được sử dụng âm Việt, nên phải nói Hán Nôm là vậy . Như vậy tuy có chữ viết riêng rồi nhưng việc đem chữ viết ấy đến cho mọi người thì hầu như vẫn còn dậm chân tại chỗ. Chính vì vậy ngày nay chữ Hán Nôm đã không đóng một vai trò tích cực trong thật tế của đất nước nữa. Tuy nhiên điều mà chúng ta cần phải ghi nhận và trân trọng là ông cha chúng ta đã từng có hoài bảo muốn có một chữ viết riêng cho đất nước mình và đã thực hiện được hoài bảo đó; hay nói khác hơn là muốn có một nền độc lập hoàn toàn trên mọi mặt quân sự, chính trị cũng như văn hóa. Ngày nay tuy ta không còn viết theo hình thức đó nữa, nhưng chữ Nôm là một di sản văn hóa hết sức quý giá đối với dân tộc ta.Tôi nhận thức được rằng việc tạo nên một chữ viết khác trong khi đang có một loại chữ thông dụng như hiện nay là điều không dễ được xã hội chấp nhận, nhưng với mong muốn thực hiện được những hoài bảo của tiền nhân xưa kia nên tôi tạo ra chữ Nôm VN này và xem đây như là một nén hương thắp lên để hướng về quá khứ và đó chính là lí do tôi tạo ra chữ Nôm VN này.
II - MỤC ĐÍCH TẠO CHỮ NÔM VN
Mặc dầu đã có chữ Nôm, nhưng rõ ràng loại chữ này vẫn chưa làm thỏa mãn và đáp ứng được mong muốn đương thời, do đó hoài bảo này luôn theo đuổi người Việt. Chính vì vậy khi người Tây đến, rất sớm, họ đã đưa ra một cách kí âm tiếng Việt theo phương pháp của tây phương (biểu âm). Đứa con tinh thần này do người Tây sinh ra, nhưng nó đã được nuôi nấng bởi chính người Việt , đứa con này đã khôn lớn và đóng một vai trò hết sức quan trọng đối với đất nước Việt Nam đến ngày nay, vì nó đáp ứng được những mong muốn của người Việt. Tuy nhiên trong tiềm thức của người Việt, hình thức chữ Hán vẫn còn in đậm. Vì con chữ này đã đi cùng với người Việt suốt hàng ngàn năm, nhất là khi muốn đưa con chữ vào trang trí ở những nơi tôn nghiêm, chùa chiền, miếu mạo, đình làng thì chữ quốc ngữ hiện nay khó mà hòa nhập với kiến trúc cổ kính của dân tộc. Chính vì vậy người Việt vẫn tiếp tục tìm kiếm, kết quả là các loại chữ viết theo mẫu tự La Tinh được sắp xếp theo kiểu chữ Hán ra đời, hoặc theo hình vuông, hoặc hình tròn hay các hình thức khác, miễn sao khi đưa vào trang trí các nơi tôn nghiêm người ta có được cảm giác có một sự cổ kính, hay nói khác hơn là có sự hòa điệu giữa quá khứ và hiện tại. Tuy nhiên đây cũng chỉ là một kiểu chữ viết, chứ không phải là một loại chữ mới. Như vậy cái hoài bão có được một chữ viết riêng lấy chất liệu từ chữ tượng hình, có tính đại chúng cao vẫn còn đó. Kế thừa những khát vọng đó của tiền nhân, tôi đề nghị ở đây một cách viết mới chữ Việt, hay một cách kí âm mới tiếng Việt mà tôi tạm gọi là chữ Nôm VN. Sở dĩ tôi làm như vậy là nhằm tạo điều kiện cho các từ Hán Việt xuất hiện như ông cha ta ngày xưa đã từng viết, như thế chúng ta mới có cơ hội nhiều hơn trong việc tiếp xúc quá khứ trong vấn đề chữ viết. Đó là mục đích của việc tạo ra chữ Nôm VN này.
III - PHƯƠNG PHÁP TẠO CHỮ NÔM VN
Từ xưa tới nay chữ viết của nước ta chủ yếu viết bằng:
1- Hoàn toàn bằng chữ Hán: Tài liệu quốc gia, thư tịch bang giao, ghi chép lịch sử, văn học nghệ thuật.
2- Chữ Nôm: Chủ yếu trong việc nghi lễ, thơ, phú.
3- Chữ La Tinh: Quốc ngữ hiện nay. Được sử dụng trên mọi mặt của xã hội.
Như vậy chúng ta thấy :
A - Chữ Hán và Nôm :(Ở đây nói hình vị) Ngày nay không còn được sử dụng chính thức ở nước ta nữa, mặc dầu những con chữ đó là một phần rất quan trọng trong nền văn hóa của chúng ta. Nhược điểm của nó chính là khó nhớ, tính liên tưởng không cao.
B- Chữ La Tinh : Dễ học, dễ đọc, khắc phục được nhược điểm trên của chữ Hán, Nôm nên dễ đại chúng hóa, kết quả là trở thành chữ quốc ngữ của nước ta, nhưng nó cũng có nhược điểm là chia cách quá khứ với hiện tại của dân tộc trong vấn đề chữ viết, mà chữ viết chính là công cụ chuyên chở văn hóa, nên sự chia cách này có ảnh hưởng tiêu cực nhất định tới văn hóa nước ta.
Từ những nhận định trên, chữ Nôm VN được tạo ra theo hướng vừa truyền thống vừa hiện đại; hay nói khác hơn là kết hợp hài hòa giữa quá khứ và hiện tại.
Truyền thống: Hình vị theo kiểu chữ tượng hình.
a -Vẫn giữ được hình thức quen thuộc của chữ tượng hình để có tính tương tác và gần gủi với con chữ trong quá khứ.
b -Tạo điều kiện để chữ Hán Việt xuất hiện như hình thức vốn có của nó, từ đó kích thích người học cần học chữ Hán.Vì ngôn ngữ Việt càng tinh tế thì từ Hán Việt càng nhiều.
c -Làm cho người học càng lúc càng thấy gần gủi với những gì mà ông cha ta đã lưu lại qua chữ viết.
Hiện đại : Về phần kết hợp âm vẫn không khác gì hiện nay.
a- Vẫn sử dụng phương thức phát âm theo những kí hiệu và đánh vần theo một trật tự nhất định.
b- Vẫn có thể ghi lại các âm Hán Việt như mẫu tự La Tinh đang làm.
c- Chỉ mất rất ít thời gian để học các kí tự cũng như cách ghép các âm,vần thành tiếng.
IV – CHẤT LIỆU TẠO CHỮ NÔM VN
Các kí tự (hình vị)đều sử dụng chất liệu chữ tượng hình, ngoài những mục đích đã nêu trên nó còn tạo nền tảng cho việc soạn thảo chữ, Thảo, Triện, Lệ ( chỉ mang tính hình thức).
Với những lí do, mục đích, phương pháp và chất liệu như đã nêu trên, tôi đề nghị ở đây một chữ Nôm VN với 42 kí tự, các chữ số, các kí hiệu dấu, ngày, tháng, năm và các quy tắc ghép âm vị thành âm tiết. Với 42 kí tự này ta có thể viết tất cả chữ trong tiếng Việt hiện nay theo phong cách chữ tượng hình.
V – CƠ SỞ NGỮ ÂM ĐỂ TẠO CHỮ NÔM VN
Trong tiếng Việt, các âm tố để cấu thành nên một Tiếng hay Âm tiết gồm các âm như sau:
1 –Phụ âm đầu(Fâđ): [Phụ âm đầu câm-b-ckq-d-đ-g-h-m-n-r-s-t-v-x-z-ch-kh-ng-nh-th-tr-ph].
2 – Nguyên âm (Ngâ):[a-ă-â-o-ô-ơ-u-ư-i-e-ê[+y]và tất cả các nguyên âm phức khác.
3 – Phụ âm cuối(Fac)[phụ âm câm-c-m-n-t-p-ch-ng-nh].
4 – Các thanh dấu(T): [bình-sắc[s]-huyền[h]-nặng[n]- hỏi[h?]ngã[ng].
Từ cách hiểu này ta có các cấu tạo một Tiếng trong tiếng Việt như sau:
1 [1+2+3+4]=[Fâđ+Ngâ+Fâc+T]
[Dũng] / d + u + ng + ng /
2 [1+2+3c+4]=[Fâđ+Ngâ+Fâc câm +T]
[Nó]+ / n + o + Fâc câm + s/
3- [1c+2+3+4]=[Fâđ câm +Ngâ+Fâc+T]
[+ anh ] /Fâđ câm + a +nh +b/
4 [1c+2+3c+4]=[Fâđ câm+Ngâ+Fâc câm +T]
[+ ọ +] /Fâđ câm + o + Fâc câm +n/
VI MỤC ĐÍCH CUỐI CÙNG : Viết tiếng Việt theo phương pháp biểu âm như La Tinh + chữ biểu ý Hán Việt.
Bước 1 – Viết theo cách biểu âm .
Ví dụ : Tôi yên tự do . Hai từ TỰ DO này mới đầu ta viết theo chữ biểu âm .
Bước 2 - Viết hai từ TỰ DO này theo chữ biểu í - Hán Việt.
Tương tự như thế cho các từ Hán Việt khác như : Độc lập , Việt Nam , dân chủ v.v.
Tất nhiên sẽ có người đặt câu hỏi:
1 - Tại sao lại phải làm ra thêm một loại chữ viết nữa trong khi chúng ta đang có một loại chữ dễ học, dễ đọc, dễ viết?.
2 - Chữ Nôm VN này xem ra cũng không quan hệ gì với chữ Nôm xưa vậy học để làm gì?
3 - Phải mất bao lâu để học chữ Nôm VN này?
4 – Từ Hán Việt trong tiếng Việt rất nhiều vậy dùng hết sẽ gây nên lộn xộn?
Xin thưa:
1- Rõ ràng chữ quốc ngữ hiện nay là một công cụ hết sức hữu hiệu trong việc truyền bá kiến thức cho cộng đồng.Tuy nhiên nó cũng có nhược điểm là tạo nên một khoảng cách giữa hiện tại với quá khứ của dân tộc trong vấn đề chữ viết, khoảng cách này xem ra càng ngày càng lớn. Thử hỏi có bao nhiêu sinh viên nước ta hiện nay viết được bài thơ Thần – Tuyên Ngôn Độc Lập đầu tiên của nước ta như nguyên bản chữ Hán, hay chí ít cũng viết,đọc và giải thích được các chữ “Vạn thế sư biểu” hay “ Khuê văn các” tại Văn Miếu Quốc Tử Giám chứ chưa nói đến các câu đối, mà đây là trường Đại học đầu tiên, nơi tiêu biểu cho văn hóa nước Việt, nơi thường được giới thiệu với quốc khách,các nguyên thủ quốc gia, là niềm tự hào của dân tộc Đại Việt,. Làm sao ta tự hào cho được khi đa số không đọc được tối thiểu những gì mà ta cho là niềm hảnh diện của dân tộc. Do đó việc làm sao học được con chữ mà ta có thể đọc được những gì ông cha ta đã từng viết và vẫn còn hiện hữu trong lòng dân tộc là một câu hỏi lớn, chỉ khi nào làm được điều đó chúng ta mới nhìn về quá khứ với một niềm tự hào dân tộc trọn vẹn. Trong hướng suy nghĩ đó chữ Nôm VN này ra đời.
2- Mục đích của việc đưa ra chữ Nôm VN này là nhằm tạo điều kiện cho chữ Hán Việt vốn có rất nhiều trong tiếng Việt của chúng ta xuất hiện như hình thức vốn có của nó. Chữ Nôm VN này có chức năng như phần vỏ ngoài bọc đường của một viên thuốc, dĩ nhiên nó không phải là thành phần chủ yếu để giúp ta trị căn bịnh, nhưng nếu không có nó thì thật khó mà nuốt được thuốc dẫu rằng người bịnh thừa biết rằng đó là thứ mà họ cần để chửa căn bịnh trầm kha. Bởi vì tôi cho rằng khi ta học một tiếng nào đó, mục đích đầu tiên là để giao tiếp hoặc nói hay viết, nếu không như thế thì cho dù thứ tiếng ấy có sâu xa, gắn bó với lịch sử như thế nào chúng ta cũng không thể nào bỏ công sức ra để học được. Trong trường hợp này chữ Nôm xưa và chữ Hán Việt là một minh chứng. Trong tiếng Việt Từ Hán Việt chiếm đến trên 60%, đây là một kho tàng giá trị đối với người Việt, người Việt ngày nay sử dụng nó trên mọi lãnh vực, họ nói được, nghe được, hiểu được, chỉ có con chữ là họ không viết được mà thôi(ở đây nói số đông). Như ta biết một từ gồm: hình vị, âm vị và ngữ nghĩa, chức năng ngữ pháp (từ loại). Thế mà người Việt nói và nghe được âm, hiểu được nghĩa thì xem như đã đi hết 2/3 đoạn đường, chỉ còn 1/3 đoạn đường là viết con chữ (hình vị), nhưng đành phải bỏ.Vì sao như vậy? Câu trả lời là: Vì muốn sử dụng được chữ Hán Việt phải dùng chữ Nôm để viết các từ thuần Việt, mà chỉ riêng việc học chữ Hán thôi cũng quá khó rồi nói chi học chữ Nôm, còn nếu chỉ học chữ Hán thôi thì học rồi chẳng biết sử dụng vào đâu, hay chỉ thỉnh thoảng mới đọc đâu đó vài ba chữ, vì vậy việc bỏ ra nhiều công sức để học một loại chữ như vậy là điều quá khó đối với quảng đại quần chúng. Chính vì vậy chữ Nôm VN này được tạo ra nhằm mục đích làm cho người học có thể viết được tất cả các chữ thuần Việt hay đã bị Việt hóa hoàn toàn cũng như các từ Hán Việt theo phong cách chữ Hán một cách dễ dàng, từ đó tạo điều kiện cho các từ Hán Việt xuất hiện theo đúng hình thức mà cha ông ta đã sử dụng tự ngàn xưa. Tôi nghĩ rằng bất cứ chữ viết nào nếu được đại chúng hóa thì việc học chữ ấy hết sức thuận tiện. Chữ Nôm xưa kia cũng như chữ Hán, phải nhớ từng chữ, nếu quên thì không có cách gì thay thế được. Ngược lại chữ Nôm VN này dễ nhớ, do đó khi ta quên một từ Hán Việt nào đó ta có thể viết chữ Nôm VN thay thế. Chữ Nôm VN này hoàn toàn không giống chữ Nôm xưa, nhưng nó có chức năng bắt cầu, làm sống lại hình thức chữ Hán Việt trong chữ viết của nước ta.
3- Với 42 ký tự cùng một số quy tắc viết, bất cứ ai cũng có thể học nó trong một thời gian ngắn, thậm chí đối với vài người đã rành chữ Hán thì chỉ mất vài ngày Cái công dụng của việc học và viết chữ Nôm VN là làm sống lại chữ Hán Việt trong Tiếng Việt của chúng ta. Đây là một lối nhỏ để về với con chữ ngày xưa, khi đã vể đến đó thì ta sẽ thấy chữ Nôm xưa chính là nhà bên cạnh. Nếu bất cứ ai viết và hiểu được 40% vốn từ Hán Việt thì xem như ta đã mở ra một cánh cửa để tiếp xúc với quá khứ của dân tộc qua chữ viết; Đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho việc học tiếng Hoa, Nhật, Hàn (các nước đồng văn). Vì tiếng Nhật và Hàn cũng như tiếng Việt, trên 50% là Hán Tự, có chữ viết, nghĩa, kể cả phát âm rất gần với tiếng Việt Đó là cái mong muốn của người làm ra chữ Nôm VN này.
4- Trong trường hợp ta viết các từ Hán Việt thì tôi đề nghị chỉ nên dùng các từ ghép mà thôi, nếu ta sử dụng được 1000 từ ghép có chọn lọc, có nghĩa là ta biết tối thiểu 1500 từ Hán do đó việc nghiên cứu vào kho Hán Nôm xưa là có cơ sở.
5 – Sau khi nếu được sử dụng rộng rải rồi, ta nên đưa vào khoảng 100 từ đơn xem như bất quy tắc để cho khi viết hình thức sẽ trở nên phong phú.
Ví dụ : Người, làm , gì, nhưng, đông, tây, nam, bắc, xuân , hạ, thu, đông v.v.
Cuối cùng tôi nhận thức được rằng chắc chắn sẽ có nhiều khiếm khuyết về mặt ngôn ngữ học; Tuy nhiên do mong muốn có một lối viết chữ Việt theo phong cách chữ tượng hình, nên trong khả năng giới hạn của mình, tôi đề nghị một cách viết chữ Việt mới như đã trình bày. Đây là một việc làm quá ư táo bạo, do đó kính mong các vị thức giả vui lòng lượng thứ cho nếu như chữ Nôm VN này làm phiền lòng quý vị./.
Đà lạt, ngày 21 tháng 12 năm 2006
Viên Như
http://viennhu.vnweblogs.com/post/11641/137061