kanji N5
hoc kanji
bảng chữ cái tiếng nhật
* 名残り雪 (Nagori Yuki) Tuy là xuân sắp đến nhưng đó đây vẫn có vài đợt
tuyết còn sót lại của mùa đông.
* 雪崩 (nadare) tuyết lở, mùa đông tuyết tích tụ trên các sườn núi và xuân
đến do độ dốc và nhiệt độ nên chúng đổ xuống. Ở các vùng ven biển Nhật Bản
hay xảy ra hiện tượng này.
* 八十八夜 (hachi Juu hachi ya): Kể từ ngày lập xuân, 88 ngày sau, (ứng với
ngày 1, 2 của tháng 5) là lúc nhà nông bắt đầu gieo hạt.
* 苗代 (Nawashiro, Naeshiro) ruộng nước để gieo hạt giống mùa xuân, từ thời
của tập thơ Man Youshu nó đã trở thành Kigo chỉ mùa xuân.
* 花曇 (hana gumori) Vào khí tiết hoa anh đào nở, bầu trời và cảnh sắc
trông mơ hồ và giống như nhìn từ một lớp mây, có khi có sương mù và mưa.
* 花冷え (Hana hie) lúc hoa anh đào nở là lúc dương khí dễ biến động, trời
hơi chớm lạnh.
* 春一番 (Haru ichiban) Khoảng thời gian cuối tháng 2 đến tháng 3, khi
những đợt gió nam đầu tiên trong năm thổi mạnh báo hiệu mùa xuân.
* 春うらら (haru Urara ) Ngày mùa xuân ấm áp, không nóng cũng không lạnh,
lòng nguời dễ chịu.
* 春炬燵 (Haru gotatsu) : Kotatsu là kiểu bàn Nhật có đặt lò lửa nhỏ để
sưởi ấm phần thân dưới và tay. Haru Gotatsu là kotatsu lúc này chỉ dùng
với mục đích là bàn, không còn để sưởi ấm vì xuân đã đến, người ta giảm bớt lửa.
* 春告げ鳥 (haru tusge tori) : tên khác của Ugusui, loại chim đặc trưng của
mùa xuân (không phải én), nó báo hiệu xuân đến.
* 彼岸 (Higan) thời kỳ phụng sự Phật Sự, tổ chức lễ tế, viếng mộ của nông dân.
* 麦踏 (Mugi Fumi) đúng như tên gọi, có nghĩa là dẫm lên lúa mạch. Đầu xuân
nguời ta dẫm lên rễ lúa mạch để phòng mầm nảy nở quá nhanh vì sương.
* 山笑う (Yama Warau) đầu xuân, cây cỏ trên núi nảy nở xanh tốt khiến ngọn
núi trông rực rỡ như đang cười.
* 夜桜 (Zozakura) ngắm hoa anh đào nở ban đêm.
* 立春 (Risshun) một trong 24 khí tiết, khoảng ngày 4 tháng 2 và là điểm
mốc bắt đầu của mùa xuân.
hoc kanji
bảng chữ cái tiếng nhật
* 名残り雪 (Nagori Yuki) Tuy là xuân sắp đến nhưng đó đây vẫn có vài đợt
tuyết còn sót lại của mùa đông.
* 雪崩 (nadare) tuyết lở, mùa đông tuyết tích tụ trên các sườn núi và xuân
đến do độ dốc và nhiệt độ nên chúng đổ xuống. Ở các vùng ven biển Nhật Bản
hay xảy ra hiện tượng này.
* 八十八夜 (hachi Juu hachi ya): Kể từ ngày lập xuân, 88 ngày sau, (ứng với
ngày 1, 2 của tháng 5) là lúc nhà nông bắt đầu gieo hạt.
* 苗代 (Nawashiro, Naeshiro) ruộng nước để gieo hạt giống mùa xuân, từ thời
của tập thơ Man Youshu nó đã trở thành Kigo chỉ mùa xuân.
* 花曇 (hana gumori) Vào khí tiết hoa anh đào nở, bầu trời và cảnh sắc
trông mơ hồ và giống như nhìn từ một lớp mây, có khi có sương mù và mưa.
* 花冷え (Hana hie) lúc hoa anh đào nở là lúc dương khí dễ biến động, trời
hơi chớm lạnh.
* 春一番 (Haru ichiban) Khoảng thời gian cuối tháng 2 đến tháng 3, khi
những đợt gió nam đầu tiên trong năm thổi mạnh báo hiệu mùa xuân.
* 春うらら (haru Urara ) Ngày mùa xuân ấm áp, không nóng cũng không lạnh,
lòng nguời dễ chịu.
* 春炬燵 (Haru gotatsu) : Kotatsu là kiểu bàn Nhật có đặt lò lửa nhỏ để
sưởi ấm phần thân dưới và tay. Haru Gotatsu là kotatsu lúc này chỉ dùng
với mục đích là bàn, không còn để sưởi ấm vì xuân đã đến, người ta giảm bớt lửa.
* 春告げ鳥 (haru tusge tori) : tên khác của Ugusui, loại chim đặc trưng của
mùa xuân (không phải én), nó báo hiệu xuân đến.
* 彼岸 (Higan) thời kỳ phụng sự Phật Sự, tổ chức lễ tế, viếng mộ của nông dân.
* 麦踏 (Mugi Fumi) đúng như tên gọi, có nghĩa là dẫm lên lúa mạch. Đầu xuân
nguời ta dẫm lên rễ lúa mạch để phòng mầm nảy nở quá nhanh vì sương.
* 山笑う (Yama Warau) đầu xuân, cây cỏ trên núi nảy nở xanh tốt khiến ngọn
núi trông rực rỡ như đang cười.
* 夜桜 (Zozakura) ngắm hoa anh đào nở ban đêm.
* 立春 (Risshun) một trong 24 khí tiết, khoảng ngày 4 tháng 2 và là điểm
mốc bắt đầu của mùa xuân.