Learn

The forum of documents and methods for studying - Lượm lặt kiến thức


    TƯ DUY DÂN GIAN TRONG VỀ KINH BẮC CỦA HOÀNG CẦM

    avatar
    congdantoancau

    Tổng số bài gửi : 633
    Tiền xu Ⓑ : 1732
    Được cảm ơn № : 27
    Ngày khởi sự Ngày khởi sự : 12/05/2014

    TƯ DUY DÂN GIAN TRONG VỀ KINH BẮC CỦA HOÀNG CẦM Empty TƯ DUY DÂN GIAN TRONG VỀ KINH BẮC CỦA HOÀNG CẦM

    Bài gửi by congdantoancau 19th June 2015, 13:08

    TƯ DUY DÂN GIAN TRONG VỀ KINH BẮC CỦA HOÀNG CẦM
                                                        
    Nguyễn Thị Minh Thương
         Khoa Ngữ Văn – Trường ĐHSP Hà Nội
     
    1. Mỗi cá nhân đều góp phần tạo nên bản sắc của một nền văn hóa, nền văn hóa ấy, đến lượt nó lại có vai trò “bứng trồng”, tạo ra bản sắc cá nhân. Nói như G. Devereux, nhà nhân học văn hóa Pháp đương đại,  văn hóa là tâm lý được phóng chiếu ra ngoài, và tâm lý là văn hóa được phóng chiếu vào trong.[1] Cả cá nhân và văn hóa đều là những thực thể tạo tác, luôn được sinh thành và không ngừng bồi đắp. Việc lựa chọn cho mình một giá trị văn hóa có vai trò quan trọng với mỗi cá nhân, đặc biệt với nghệ sĩ, nó góp phần hình thành tư duy nghệ thuật. Trong rất nhiều cách ứng xử của các nhà thơ đương đại, khác với những người cùng chịu nạn trên cây thập ác Nhân văn giai phẩm, Hoàng Cầm đã chọn con đường trở về với văn hóa dân gian, định vị mình trong không gian Kinh Bắc. Nghiên cứu tư duy thơ Hoàng Cầm, sẽ là thiếu sót nếu không nói đến dấu ấn của lối tư duy dân gian. Bài viết sau đi tìm dấu ấn của tư duy dân gian trong thơ Hoàng Cầm, cụ thể qua tập Về Kinh Bắc – tập thi phẩm được coi là sự thăng hoa trong nghiệp thơ Hoàng Cầm, để thấy một phương diện cốt yếu trong tư duy nghệ thuật của nhà thơ, đồng thời cho thấy một thi sĩ hiện đại đã trở về nguồn dân gian như thế nào? Văn hóa dân gian đi qua màng lọc tư duy nghệ thuật hiện đại sẽ biến đổi ra sao? Sự dung hợp giữa hiện đại và truyền thống sẽ tạo ra thành quả gì cho văn chương đương đại?
    Toàn bộ những giá trị vật chất, tinh thần của một nền văn hóa thực chất được tạo ra từ một/ một số kiểu tư duy nhất định và chính bản thân cách tư duy ấy cũng trở thành một giá trị, một bản sắc văn hóa riêng. Tư duy dân gian là cách nghĩ, cách cảm của tập thể nhân dân lao động được hình thành từ lâu đời, được bảo lưu và bồi đắp qua thời gian, trở thành những trầm tích văn hóa, từ đó hình thành nên tâm thức của cả cộng đồng. Tư duy dân gian là một phạm trù rất rộng. Nó có thể được thể hiện qua hoạt động thực tiễn của con người, qua các nghi lễ dân gian, và đặc biệt, được bảo lưu trong những tác phẩm văn học dân gian,…Vì thế, tư duy dân gian có thể được hiểu ở một phạm vi hẹp hơn. Đó là tư duy nghệ thuật dân gian, tức là tư duy nghệ thuật của cộng đồng được lưu giữ trong những tác phẩm văn học dân gian, thể hiện trên cả hai phương diện: nội dung – quan niệm về thế giới, cuộc sống con người và cách thể hiện nội dung ấy qua hình thức nghệ thuật biểu đạt. Có thể khái quát tư duy dân gian thành một số đặc điểm như sau: 1– Thế giới này cái thần kì tồn tại như một hiện thực tất yếu, cái huyền ảo không phải là một hư cấu mà họ tin rằng nó thật sự tồn tại (quan điểm vạn vật nhất linh,…). 2 – Sự hồn nhiên trong hành trình đi tìm hạnh phúc (thể hiện trong những khát vọng, ước mơ, kết thúc có hậu trong những câu chuyện cổ,…). 3 – Nghĩ, cảm bằng các biểu tượng, mô típ (vì dân gian nhìn thấy trong mọi sự vật hiện tượng luôn ẩn tàng ý nghĩa và thế giới có thể phân loại được). 4- Tư duy dân gian Việt Nam nói chung và Kinh Bắc nói riêng bên cạnh những nét chung thuộc về tâm thức nhân loại như trên còn có những nét riêng: người Việt Nam trọng tình, sống hòa hợp với thiên nhiên, con người nhìn chung là thụ động, gắn với tín ngưỡng thờ mẫu, đề cao thiên tính nữ,…
    Nếu tư duy dân gian là tư duy của cộng đồng thì tư duy thơ hiện đại là tư duy của cá nhân. Tất nhiên, cái làm nên bản sắc cá nhân là cách anh ta ứng xử như thế nào với cái cộng đồng. Nếu quay lưng lại cộng đồng, anh ta là một kẻ tha hương lạc loài, vong bản ngay trên chính quê hương. Ngược lại, nếu hòa giải với cộng đồng, anh ta phải tìm cách một mặt, dung hòa với truyền thống, mặt khác, không được để hòa tan trong truyền thống. Hoàng Cầm là một nhà thơ hiện đại. Ông chọn cách ứng xử tìm về với nguồn văn hóa dân gian. Ông tha thiết với vùng quê Kinh Bắc, hoài tưởng về nó với tất cả tình yêu và nỗi đau, ngụp lặn trong nguồn dân gian Kinh Bắc. Vì thế, tư duy thơ Hoàng Cầm mang dấu ấn của tư duy dân gian rõ nét. Nhưng thơ Hoàng Cầm không phải là thơ dân gian kéo dài, mà trên nền tảng tư duy cộng đồng ấy, nhà thơ có những bứt phá riêng bằng sáng tạo cá nhân, để giữa nguồn chung dân gian, vẫn nhận ra nguồn riêng – một gương mặt thơ Hoàng Cầm – không thể lẫn.
    2. Tìm hiểu vấn đề tư duy dân gian trong tập thơ Về Kinh Bắc, chúng tôi không cốt dừng lại ở những hình ảnh, thi liệu dân gian được Hoàng Cầm sử dụng đậm đặc trong thế giới thơ mình (địa danh lịch sử, nhân vật lịch sử, tái hiện lại các trò chơi dân gian, thi liệu dân gian,…), dù nó cũng thể hiện một phần của tư duy nghệ thuật – phạm vi đề tài mà nhà thơ bao quát. Điều ấy đã được khảo sát khá công phu trong những công trình nghiên cứu khác, sự nhắc lại là không cần thiết. Chúng tôi tập trung làm sáng tỏ dấu ấn của tư duy dân gian ở chiều sâu hơn, thể hiện trong cách nhìn thế giới, dạng thức cái tôi trữ tình, các biểu tượng, mô típ, các huyền thoại đã trở thành mẫu gốc trong tư duy nhân loại, những vấn đề thuộc tâm thức cộng đồng được bảo lưu qua thời gian được trở lại và hồi sinh trong thơ một nhà thơ hiện đại,...
    2.1. Tư duy huyền thoại là nét đặc trưng của tư duy nguyên thủy. Những khảo cứu của Lévy Bruhl trong Kinh nghiệm thần bí và biểu tượng ở người nguyên thủy đã chỉ ra rằng: “Trong ý nghĩ của người  nguyên thủy, thế giới huyền thoại (dựa vào kiểu thế giới đó, họ tạm hình dung thế giới vô hình), tuy rằng họ cảm thấy thế giới đó khác với thế giới này, và rằng nó thuộc về thời kỳ trong đó vẫn còn chưa có thời gian, tuy nhiên thế giới ấy không phải là ở nơi khác, ở bên ngoài vùng đất họ cư trú, thậm chí cũng không phải là ở bên kia đường chân trời. Tất cả những gì xảy ra trong thế giới đó lấy vùng đất mà họ đang sinh sống làm sàn diễn”[2]. Người nguyên thủy tin sự tồn tại của thế giới huyền thoại là có thật. Những tổ vật, những anh hùng truyền thuyết, họ đã sống, và họ vẫn hiện diện, đôi khi ở những nơi thờ vật tổ địa phương, đôi khi hòa nhập vào những lớp đất dưới hình thù cây cối, tảng đá,…Bởi thế, cũng theo tác giả này, thế giới huyền thoại gợi lên trong người nguyên thủy những xúc động linh thiêng hơn là một niềm kinh ngạc. Để trở về với thế giới huyền thoại ấy, không gì khác là trở lại bằng những giấc mơ, hoặc thiếu vắng những giấc mơ thì người đang sống có thể tìm đến những ông đồng bà cốt. Tư duy huyền thoại khiến con người nhìn thế giới như một thực thể thực ảo trộn lẫn. Thế giới được bao bọc trong một không khí huyền ảo với những vật thần kì, siêu nhiên. Tuy nhiên, khi xã hội càng văn minh thì tư duy huyền thoại càng lùi vào quá khứ như một sản phẩm của trí tưởng tượng trong thời ấu thơ một đi không trở lại đầy lãng mạn và hồn nhiên của loài người. Sự phát triển của lí tính và khoa học kĩ thuật khiến người ta ngày càng khước từ tư duy huyền thoại nguyên thủy. Chỉ đến khi học thuyết phân tâm học của Freud ra đời với phát hiện về đời sống vô thức của con người, và đặc biệt, khi K. Jung khám phá ra bên cạnh đời sống vô thức cá nhân còn có đời sống vô thức tập thể được bảo lưu trong các cổ mẫu nguyên thủy thì tư duy huyền thoại trở lại như một sự lại giống trong văn học viết. Tất nhiên, tư duy huyền thoại này ít nhiều đã tách khỏi gốc cây nguyên hợp của văn học dân gian để phát triển về một hướng riêng, phức tạp hơn khi có sự cộng hưởng với tư duy hiện đại. Như thế, tư duy huyền thoại của dân gian đã trở thành một lớp trầm tích được lưu giữ và bồi đắp trong dòng chảy lịch sử. Nó trở thành một thứ tâm thức cộng đồng, sẽ phóng chiếu vào tâm thức của mỗi cá nhân, mà nghệ sĩ là đối tượng nhạy cảm đặc biệt.
               Có thể tìm thấy ở Về Kinh Bắc của Hoàng Cầm dấu ấn của lối tư duy huyền thoại này khi nhà thơ tạo lập nên một thế giới hòa trộn cái thực và cái ảo. Cái ảo trộn lẫn trong cái thực như một tồn tại hiển nhiên: Ao mưa dằng dịt lá trường sinh, hái quả vườn ổi lại đi qua cầu bà Sấm, bến cô Mưa, trò chơi đố cỏ, đố lá quen thuộc, nhưng cỏ và lá ở đây là cỏ bồng thi, lá diêu bông, thời gian cũng được huyền thoại hóa với những chiều liêu trai, đêm hồ tinh, đêm vàng Kinh Bắc,...Đó là cái nhìn của huyền thoại. Thế giới là một hợp nguyên của cái đời thường và cái kì ảo hoang đường. Thụy Khuê gọi “sa mạc Hoàng Cầm lung linh giữa mơ và thực” vì lẽ đó.
    Nhưng điều muốn nhấn mạnh ở đây là Hoàng Cầm đã nối kết thế giới thực và thế giới ảo bằng cách nào? Không phải ngẫu nhiên Về Kinh Bắc mở đầu bằng năm đêm trong nhịp một được đặt tên là Khấn nguyện. Đỗ Lai Thúy đã lí giải khá thuyết phục khi coi đêm trong ý nghĩa biểu tượng của nó là “vũ trụ thời khởi thủy”, “đêm đồng nghĩa vô thức”, “đêm là bà đỡ, đồng lõa của sáng tạo, của giấc mơ”. Hoàng Cầm đã nối cái thực tại hiện hữu với cái huyền thoại vô thức bằng quãng thời gian lưu chuyển – đêm, bằng con đường của giấc mơ, và bằng cách khấn nguyện, gọi đồng, nhập hồn. Chu Văn Sơn nhận ra Hoàng Cầm trong Về Kinh Bắc đã: “chiêu hồn quá khứ”, “gọi hồn quá khứ về thăng đồng”. Hoàng Cầm như một “gã phù thủy” sửa soạn hình nhân: “Hình nhân má điệp tóc mực tàu/ Mắt nghiêng dựa liếp/ Mai nhảy vào đám lửa giỗ đầu/ Gấm song cầu khoác lại áo ngày xưa”, thắp “Đèn nhang 1”, “Đèn nhang 2”,  rì rầm khấn khứa“Tăm cắm chặt bình hương/ Em xít xa tập khấn,.. Khắp tập thơ rì rầm những lời khấn nguyện.... Hoàng Cầm đã giao tiếp với cõi ảo sinh bằng cả giấc mơ và cả cách nhập hồn, gọi đồng, siêu thoát. Con đường trở về Kinh Bắc cũng như cách người nguyên thủy giao tiếp với cõi siêu nhiên. Kinh Bắc vì thế cũng là một cõi siêu thực, không phải là một thực tại hiện hữu, mà là thực tại khác tồn tại trong giấc mơ, được siêu thăng trong giá đồng của sự trở về. Hoàng Cầm đã nối kết hai thế giới hiện hữu và vô hình bằng cách ấy. Bởi thế, thế giới của Về Kinh Bắc hiện lên đầy những huyền thoại trong cõi thực.
    Từ Kinh Bắc trong hiện tại trở về Kinh Bắc trong quá khứ, từ Kinh Bắc thực gọi dậy cả một Kinh Bắc ảo sinh, Hoàng Cầm đã diễn đạt khoảng giao thoa giữa hai thế giới. Về Kinh Bắc bằng những đứt gãy trong mạch cảm xúc. Đó là sự gãy khúc mà ở đó ranh giới giữa cõi thực và cõi ảo chạm xiết nhau, tạo ra những đột biến tâm linh, trong giây phút, con người được mặc khải, gặp gỡ với một thế giới khác ngoài thực tại: Chớp rạch dáng tiên vén xiêm xõa ngủ/ thoắt chìm/ Gấu đẩy đá thiên thai, Chợt mê thét giữa sân/ Nét mác chữ thiên toạc lưng trâu mộng, Chợt thấy mấy hài nhi khăn trắng/ Xẵng canh gà thét đuổi đêm đông, Vại bỗng ngất ngư cười cải mả/ Bát bỗng lim dim tìm mắt gái muộn chồng, Mắt sư nữ chùa Thầy/ Thoắt xanh màu xanh xứ Lạng, Chợt rùng mình níu đêm đồng lõa/ Gai xiên đâm mười ngón ân tình,...Các từ bỗng, chợt, thoắt, lặp lại với tần số cao trong tập thơ gợi nên tính chất đột biến, vụt hiện. Trong Đêm thổ- thi phẩm mở đầu cho cuộc hành trình trở về Kinh Bắcsau giây phút thoắt chìm, thế giới Kinh Bắc thực chìm đi trong cõi huyệt mộ, lầu hoang, mồ mưa sũng. Kinh Bắc hiện lên như một âm bản. Tất cả được khâm liệm với Châu chấu ma vờn cổ yếm xây, Tờ kinh đắp mặt ru bươm bướm, Cô nàng xưa cắn chắt/ Giờ đã nằm lưng giậu phủ tầm xuân,...Nhưng khi bước qua thế giới huyệt mộ ấy rồi, Kinh Bắc hiện về rực rỡ, ồn ào, hoàng kim trong những đêm vàng, đêm hội, trong quá khứ vàng son với những vương hậu, ái phi, với nhịp sống và lễ hội văn hóa ngàn đời. Qua hai lần khúc xạ và phóng chiếu, có thể hiểu vì sao Phạm Thị Hoài đọc Hoàng Cầm thấy thơ ông “đẹp và xa cách”.
    Tuy nhiên, dù mang dấu ấn của tư duy dân gian trong cách nhìn thế giới, Hoàng Cầm vẫn là một nhà thơ hiện đại. Tư duy huyền ảo của dân gian kết hợp với cái nhìn siêu thực đầy tính hiện đại đã tạo nên một Hoàng Cầm huyền ảo và siêu thực, truyền thống và hiện đại. Tư duy siêu thực như một bước tiến của tư duy nghệ thuật hiện đại trên cơ sở triết học là thuyết trực giác của Bergson và cơ sở tâm lý là phân tâm học của Freud đã đưa lại một cái nhìn mới và chính xác hơn về thực tế. Thực tế ấy được kết hợp giữa thực và mộng, giữa vô thức và ý thức, “giấc mơ và hiện thực sẽ chuyển hóa thành một kiểu thực tế tuyệt đối, một cái siêu thực”[3]Tư duy siêu thực của nghệ thuật hiện đại gần với tư duy huyền thoại nguyên thủy của dân gian ở chỗ nó cùng tạo ra một thế giới thực mộng trộn lẫn, nhưng khác ở chỗ tư duy siêu thực nhấn nhiều hơn đến đời sống tâm linh vô thức cá nhân, còn tư duy huyền thoại nguyên thủy nhấn mạnh vào đời sống tâm linh vô thức tập thể với những hình tượng thần thoại kì vĩ, những sự vật thần kì– biểu tượng tôn thờ chung cho cả cộng đồng. Hơn nữa, tư duy siêu thực tìm đến một cách viết đặt những hình ảnh rất xa nhau, để mở rộng tối đa biên độ của sự tạo nghĩa trong cách biểu đạt hình tượng. Cái siêu thực kết hợp với cái huyền ảo dân gian đã tạo nên nét riêng của Hoàng Cầm trong Về Kinh Bắc. Sự đứt đoạn trong mạch nối các câu thơ, những khoảng lặng, lời câm để lại khoảng trống trên văn bản là những sáng tạo mới của Hoàng Cầm để tạo nên thế giới huyền ảo siêu thực trên cơ sở tư duy huyền thoại của dân gian. Thủ pháp này khó có thể tìm thấy trong cách biểu đạt của dân gian. Con người thời nguyên thủy cũng có sự tư duy như vậy, nhưng họ thể hiện nó qua các hoạt động nghi lễ chứ trình độ ngôn ngữ sơ khai của buổi bình mình trong lịch sử nhân loại chưa cho phép con người biểu lộ tư duy ấy bằng ngôn ngữ. Bởi thế, sự sáng tạo của Hoàng Cầm khi vận dụng tư duy huyền thoại của nguyên thủy ở đây là sự làm mới trong cách viết. Với chất liệu được lấy từ vùng quê Kinh Bắc: hoa lá cỏ cây, sông hồ, chùa chiền, lễ hội, sử sách,...của quê hương, ông đã tạo nên một thế giới thơ siêu thực thấm đẫm chất huyền ảo dân gian.
    2.2. Dấu ấn của tư duy dân gian trong Về Kinh Bắc không chỉ thể hiện qua cách tư duy về thế giới mà còn được nhận ra ở dạng thức cái tôi trữ tình.
    Trước hết, có thể thấy dạng thức cái tôi trữ tình trong Về Kinh Bắc có sự gặp gỡ với kiểu nhân vật quen thuộc trong cổ tích dân gian: nhân vật mồ côi. Nhân vật mồ côi rất tiêu biểu trong truyện cổ tích thần kì (anh Khoai – Cây tre trăm đốt, Tấm – Tấm Cám, Chử Đồng Tử - Chử Đồng Tử, Lọ Lem – Cô bé Lọ Lem,...). Kiểu nhân vật này hiền lành, tốt bụng, có số phận bất hạnh, nhưng nhìn chung là thụ động, yếu ớt, thường xuyên phải có sự trợ giúp của những lực lượng siêu nhiên mới có thể thực hiện được ước mơ. Sáng tạo kiểu nhân vật mồ côi, dân gian muốn phản ánh thực trạng đau khổ của người lao động trong xã hội xưa, và qua họ, gửi gắm những ước mơ về hạnh phúc, một xã hội công bằng cái thiện chiến thắng cái ác.
    Hoàng Cầm cũng là một con người mồ côi trong tình cảm. Tuổi thơ ông qua đi không bình lặng như những đứa trẻ khác. Mẹ Hoàng Cầm là cô gái làng Bựu, có nhan sắc và hát quan họ hay nổi tiếng. Nhưng sự tài sắc của người đàn bà không phải lúc nào cũng là vật bảo đảm cho một tương lai hạnh phúc. Khi lấy chồng, bà phải chịu số phận hẩm hiu. Bố Hoàng Cầm là một nhà Nho, ba lần thi trường Nam Định không đậu, sau đó bất đắc chí nên bỏ làng đi dạy học lang thang, rồi làm thầy lang, nhưng vẫn lang thang chữa bệnh khắp các huyện trong vùng Bắc Ninh, Bắc Giang. Người cha không làm tròn phận sự của một trụ cột gia đình. Mẹ Hoàng Cầm khi sinh ông phải vượt cạn một mình, và cũng một mình nuôi con. Chính Hoàng Cầm bộc bạch: “Không hiểu sao, tôi sớm có cái buồn cô đơn ngay từ những năm lên sáu, lên bảy tuổi. Bẩm sinh chăng? Hay chính nỗi buồn của người con gái tài sắc lấy chồng từ năm mười bảy tuổi mà phải phải sống cô đơn đến hơn mười năm?” [4] Như vậy, Hoàng Cầm không phải đứa trẻ mồ côi nhưng lại mang mặc cảm mồ côi. Mặc cảm của một đứa trẻ yếu ớt, luôn thèm khát tình cảm in dấu trong Về Kinh Bắc. Với Hoàng Cầm, nỗi sợ thường trực nhất là sợ mất mẹ, sợ mẹ đi lấy chồng: “Động gót mưa xuân/ cưới mặt trời hè/ Ới thương là thương/ Gà con nhớ mẹ/ cỏ vàng rung chân”, “Chị lỡ xe hồng/ Mẹ đi lấy chồng/ cỗ cưới chênh vênh khoai luộc/ Mật vàng mọng rách vỏ nâu non”,...Nhu cầu có mẹ thường trực bên mình trở thành nỗi thảng thốt của đứa con khi không có mẹ: Mẹ ơi/ Mẹ ơi/ Con không mong giời mưa/ (Mưa không được thả diều)/ bây giờ mẹ ở đâu. Bốn câu thơ giản dị, nhưng đọc kĩ, thấy trong đó cả sự hồn nhiên của trẻ thơ và nỗi đau người lớn. Dấu ngoặc đơn Mưa không được thả diều thực chất chỉ là sự giải thích nhằm chống chế cảm xúc đau xót, cách nói chệch hướng, làm mờ hóa nỗi đau mà đứa con không dám gọi tên. Con không mong giời mưa, đâu phải vì Mưa không được thả diều, mà ẩn ý của nó đã được gợi đến trong sự liên tưởng với lời bài ca dao: Trời mưa bong bóng phập phồng/ Mẹ đi lấy chồng con ở với ai. Thơ Hoàng Cầm luôn thảng thốt ám ảnh mất mẹ, mẹ đi lấy chồng. Ám ảnh mồ côi vọng vào trong những cuộc đi tìm: Mùa chưa về/ Tu hú gọi Em đi tìm Mẹ, Con đi tìm Mẹ/ Tre dậm lông mày/ Ao bèo chột mắt, Ta con bê vàng lạc dáng chiều xanh/ đi mãi tìm sim sim chẳng chín/ Ta lên đồi thông nằm miếu Hai Cô/ gặm cỏ mưa phùn/ Dóng dả gọi về đồng sương/ đôi ba người lận đận/ Đêm nay mẹ chẳng về chuồng”,...Sau này khi đứa trẻ lớn lên, ngôi người nữ được dịch chuyển, từ mẹ sang chị, từ tình mẫu tử sang tình yêu, tình gắn mẹ chuyển sang tình luyến chị. Trong tình yêu, xúc cảm của Hoàng Cầm vẫn còn nguyên ám ảnh côi cút trong tâm thức: Chị bỏ em đi/ Cánh nhẹ trên sông/ Chiếc lá mơ rừng/ Hát lừng ngọn gió/ Khóc đỏ chiều quê, Chị lỡ xe hồng/ Mẹ đi lấy chồng, Bao giờ Chị về/ Tóc phủ vai em chiều hương nhu, Quan đốc đồng áo đen nẹp đỏ/ thả tịnh vàng cưới Chị/ võng mây trôi,...
    Mang ám ảnh mồ côi, thiệt thòi và thiếu thốn, không được bồi đắp bởi sức mạnh của người cha, cái tôi trữ tình của Hoàng Cầm trong Về Kinh Bắc hiện lên đầy yếu ớt, bất lực và có phần thụ động. Nếu các nhân vật mồ côi trong cổ tích gửi vào tiếng khóc nỗi bất lực của mình thì cái tôi Hoàng Cầm trong Về Kinh Bắc hiện lên nỗi mặc cảm xót xa. Cái tôi ấy chỉ biết: Em đứng nhìn theo em gọi đôi khi tịnh vàng cưới Chị (Cây tam cúc), chỉ biết nghe theo lời Chị bảo, câm lặng đi tìm Lá để rồi chấp nhận mọi khước từ, chỉ biếtLẽo đẽo em đi vườn mai sau/ cúi nhặt chiều mưa dăm quả rụng (Quả vườn ổi), nó thụ động trong cuộc chơi để người khác đưa đường: Chị đưa em đến bến này (Cỏ bồng thi), nó chỉ biết van xin và phản ứng yếu ớt: Ngày chị bảo Em quên/ Em tơ tưởng sao bắt Em đừng nhớ/ Tha cho em/ Tha em (Nước sông Thương), và bất lực hoàn toàn: Chắp tay nhìn nghẽn nghìn phương (Đợi mùa)... Mồ côi trở thành nỗi ám ảnh trong cái tôi trữ tình. Thơ Hoàng Cầm đầy những khoảng lặng, lời câm, những đối thoại rời rạc khắc sâu thêm tâm thức mồ côi ấy. Phạm Thị Hoài khi đọc Mưa Thuận Thành đã rất tinh tế nhận ra: “Thế giới tình cảm của Hoàng Cầm trong Mưa Thuận Thành, dù gồm nhiều mảng rất khác nhau, chỉ xót xa, phiền muộn, yểu điệu, yếu ớt, tinh vi, nhiều mặc cảm và nhiều nữ tính”[5].  Nhân vật trữ tình không có cái mạnh mẽ nồng nàn nam tính người con trai trong thơ Xuân Diệu: Anh xin làm sóng biếc/ Hôn mãi cát vàng em/ Hôn thật khẽ thật êm/ Hôn êm đềm mãi mãi, cũng không có cái táo bạo như Đồng Đức Bốn sau này: Em bỏ chồng về ở với tôi không.
    Nguồn cơn của sự bất lực này là do đâu? Đó là bởi tình yêu của Hoàng Cầm phạm phải một điều bất thường, một cấm kị, trong hệ thống quy chuẩn của xã hội: em yêu chị. Bởi thế, trong con mắt chị, em còn là trẻ con, không được coi như một người trưởng thành. Mối tình của Em với Chị, nói như Chu Văn Sơn, là khối tình nghẹn, không được chấp nhận để bùng tỏa ra ngoài. Hoàng Cầm không có đủ mạnh mẽ để phá bỏ quyết liệt giới hạn cấm kị. Sự phản ứng bền bỉ, nhưng âm ỉ, chứ không bùng phát mãnh liệt. Tình yêu của Em không được thể hiện công khai, mà phải gửi gắm qua các trò chơi dân gian. Bởi thế, Hoàng Cầm còn biết nói gì, làm gì hơn là câm lặng? Biết làm gì hơn ngoài những hành động thụ động yếu ớt kia?
    Tuy nhiên, vẫn có sự khác biệt căn bản giữa dạng thức cái tôi trữ tình của Hoàng Cầm và kiểu nhân vật mồ côi trong văn học dân gian. Xây dựng kiểu nhân vật mồ côi, dân gian muốn hướng đến những vấn đề xã hội: vấn đề thân phận con người, đấu tranh giai cấp, lẽ công bằng,...Bởi thế, nhân vật mồ côi trong truyện cổ là nhân vật chức năng, nó đại diện cho tư tưởng, quan điểm của nhân dân, được sự trợ giúp của những lực lượng thần kì để thực hiện những ước mơ đẹp đẽ, lãng mạn. Dân gian không tập trung diễn tả đời sống nội tâm nhân vật. Nỗi đau tâm hồn của nhân vật mồ côi không phải là một ám ảnh. Ẩn trong hình tượng nhân vật mồ côi là cái nhìn, tiếng nói của tập thể về những vấn đề xã hội. Dạng thức cái tôi trữ tình trong Về Kinh Bắc mang tâm thức mồ côi. Nó mang tính cá nhân đầy cảm xúc và ám ảnh. Nó là nỗi đau riêng mà nhà thơ nếm trải, bởi thế, ông thể hiện nó với tất cả những đau đớn, day dứt, dang dở của những khát vọng không thành. Nói cách khác, ở truyện cổ tích, chỉ xuất hiện kiểu nhân vật mồ côi chứ chưa xuất hiện nhân vật cô đơn. Còn ở Hoàng Cầm, kiểu nhân vật mồ côi đã trở thành cảm thức về nỗi cô đơn – một cảm thức lớn của con người thời hiện đại. Đó cũng chính là sự khác biệt căn bản giữa tư duy văn học dân gian và văn học viết. Một bên là tư duy của cộng đồng, một bên là tư duy sáng tạo của cá nhân.
    Thứ hai, dấu ấn của tư duy dân gian thể hiện trong tính khuynh nữ của cái tôi trữ tình. Tình cảm gắn bó với mẹ và luyến ái với chị khiến cái tôi trong Về Kinh Bắc mang dạng thức một cái tôi khuynh nữ. Hoàng Cầm thường tìm đến những vẻ đẹp mang thiên tính nữ mà phần bản chất nhất, cốt lõi nhất của thiên tính này là tính mẫu. Tư duy khuynh nữ chịu ảnh hưởng rõ nét của tư duy cộng đồng. C. Jung trongTừ điển biểu tượng văn hóa thế giới, cho rằng tính nữ tượng trưng cho phương diện của vô thức, gọi làANIMA. Anima là hiện thân cho tất cả những khuynh hướng tâm lí nữ tính của tâm hồn con người, ví dụ như những tình cảm, những tâm trạng mơ hồ, trực giác tiên đoán, tính nhạy cảm về sự phi lí, năng lực tình yêu cá nhân, tình cảm đối với thiên nhiên, và sau cùng – nhưng không phải là kém hơn – là mối liên hệ với vô thức. Anima cũng có thể tượng trưng cho một ảo mộng về tình yêu, hạnh phúc, về hơi ấm người mẹ, một giấc mơ xúi giục con người quay lưng với thực tại. Xã hội nông nghiệp cổ truyền Việt Nam với lối sống trọng tình, đề cao vai trò của người phụ nữ, đã hình thành nên một thứ đạo mẫu trong tâm thức người Việt, khác với nền văn hóa phương Bắc đề cao phụ tính – dương tính. Nguyên lí Mẹ được coi như nền tảng của gốc văn hóa Việt.[6] Nhà văn Nguyễn Xuân Khánh đã đặt tính mẫu trong tương quan với tính nữ:“Người việt cổ mình là thờ người Mẹ, người mang nặng đẻ đau, ôm ấp, che chở, nuôi nấng và chăm bẵm con mình suốt đời, nó khác hoàn toàn với tính nữ. Nếu tính nữ đơn thuần chỉ là tính mềm mại, uyển chuyển, tính nhu thì Mẫu Thượng Ngàn vẫn có tính nữ nhưng trong đó tính nữ phát triển lên trọn vẹn là tính mẫu”. [7] Cả tính nữ, và phần cốt lõi nhất của nó là tính mẫu được thể hiện rõ nét trong Về Kinh Bắc.
    Tính khuynh nữ trong tư duy nghệ thuật tạo nên dạng thức cái tôi cái tôi trữ tình khuynh nữ ở Về Kinh Bắc, nó thể hiện cả trong cách tư duy và thế giới cảm xúc của tập thơ. Về tư duy, lối tư duy duy cảm là tư duy mang tính nữ, thiên về cảm tính hơn lí tính. Nó tạo ra những hình ảnh của vô thức, ngẫu nhiên, lộn xộn, đứt đoạn, để lại những khoảng trống trong liên tưởng và những khoảng trắng, sai ngữ pháp trong hệ thống ngôn từ. Về thế giới cảm xúc, một mặt, thế giới cảm xúc của Hoàng Cầm trong Về Kinh Bắc tràn ngập nỗi khát khao trở về với mẹ. Mặt khác, tính nữ thể hiện trong ảo mộng theo đuổi những giấc mơ tình yêu lứa đôi.
    “Về Kinh Bắc giống như một giấc mơ”[8]. Những hình ảnh trong giấc mơ khó có thể cắt nghĩa rạch ròi. Khó có thể hiểu được những hình ảnh trong thơ Hoàng Cầm bằng logic lí trí đơn thuần: Về Kinh Bắc phải đâu con nghẹn khóc/ Con không cười/ Con thoảng nhớ, thoảng quên. Đó là “trạng thái mơ màng”, “một sự mù đi và điếc đi với thế giới bên ngoài” (Arnaudop) Trạng thái ấy xuyên suốt cả tập thơ, tạo nên những hình ảnh chập chờn, hư thực - sản phẩm của trực giác. Những câu thơ: Mồ tháng giêng mưa sũng/ Đằm ca dao sáo diều chiều lịm tím lưng trâu, Một trẻ sơ sinh đuổi giọng mèo hoang qua miếu mưa phùn, Giếng ngọc ễnh ương quát đêm tiền sử, Nát nhàu thân tố nữ, Gàu giai ai vớt chị ơi/ Lòa lõa thân trăng, vục bên hồ tinh, … tạo nên một thế giới thực mà ảo, gần mà xa. Những hình ảnh như một khúc đoạn trong giấc mơ. Khó có thể lí giải cơ chế liên tưởng của Hoàng Cầm bởi: “Mạch liên tưởng khó nắm bắt, lắt léo, tinh vi, đột ngột nhảy cóc, đột ngột mất hút, rồi lại đột ngột trở về như không có gì cần giải thích.”.[9]
                Có thể thấy, dạng thức cái tôi trong Về Kinh Bắc của Hoàng Cầm mang cảm thức mồ côi và thiên về tính nữ. Dạng thức cái tôi này mang đậm dấu ấn của tư duy dân gian trong kiểu dạng nhân vật mồ côi của truyện cổ tích và tâm thức nghiêng về tính nữ trong lối tư duy duy cảm và tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt. Sự hòa hợp giữa tư duy dân gian trong tư duy của nhà thơ hiện đại đã tạo nên dấu ấn riêng cho cái tôi trữ tình của Hoàng Cầm.
    2.3. Tư duy dân gian thường được thể hiện bằng những biểu tượng và mô típ. Mô típ được sử dụng trong hầu khắp các thể loại văn học dân gian, từ thần thoại, truyền thuyết, ca dao,...đặc biệt ở truyện cổ tích. Nghiên cứu của Propp trong Hình thái học truyện cổ tích thần kì thực chất là cuộc đi tìm các mô típ, ý nghĩa của các đơn vị mô típ và liên hệ chúng lại trong một chỉnh thể cấu trúc. Khảo sát hơn 100 truyện cổ tích thần kì Nga, Propp xác lập được một hệ thống 31 chức năng (ý nghĩa của các mô típ). [10] Về Kinh Bắc của Hoàng Cầm đã sử dụng nhiều mô típ dân gian. Các mô típ quen thuộc của dân gian: sự ngăn cấm (dặn dò không được làm gì), sự vi phạm (quên lời dặn, làm trái lệnh), sự rời khỏi (nhân vật chính ra đi), mô típ thách đố, mô típ đi tìm vật thiêng được tìm thấy trong Về Kinh Bắc ở  cả hai cấp độ: bài thơ và tập thơ.
    Nhân vật trữ tình trong tập thơ đã phạm phải điều ngăn cấm của tình yêu: một đứa trẻ có tình cảm luyến ái với một người đã trưởng thành. Tình yêu Em – Chị là nét riêng của Hoàng Cầm trong thơ tình yêu. Bởi phạm phải điều cấm kị nên nhân vật quên đi những ranh giới thông thường: Chị bảo em quên (Nước sông Thương), nhưng bất chấp sự cấm kị ấy, nhân vật phản kháng: Em tơ tưởng sao bắt Em đừng nhớ và cầu xin: Tha cho em/ Tha Em. Phạm phải cấm kị nên phải đối diện với những hiểm nguy, bị ám ảnh bởi sự trừng phạt của cộng đồng (Cỏ Bồng thi[11]). Đây đều là những mô típ quen thuộc trong văn học dân gian: Adam và Eva phạm tội tổ tông, ăn trái cấm nên bị trừng phạt, Promete phạm điều cấm kị đánh cắp lửa thiêng xuống cho loài người nên bị xiềng trên vách núi, Nàng Tô Thị lấy nhầm anh trai làm chồng nên phải trở thành vọng phu hóa đá,  người em trong Sự tích trầu cau phải bỏ nhà đi vì sự nhầm lẫn của vợ người anh, dẫn đến kết thúc bi kịch cho cả ba nhân vật trong câu chuyện, Thị Màu mang thai hoang bị làng phạt vạ,...Phạm phải cấm kị - Phản kháng – Hình phạt của cộng đồng là những mô típ quen thuộc trong văn học dân gian đã lưu lại dấn ấn trong sự sáng tạo của Hoàng Cầm ở Về Kinh Bắc.
    Chúng tôi chú ý đến mô típ Đi tìm vật thiêng –theo chúng tôi là quan trọng nhất trong hệ thống mô típ ở Về Kinh Bắc. Mô típ đi tìm vật thiêng có liên quan đến mô típ thách đố. Môtíp thách đố thể hiện ở một số thi phẩm của Hoàng Cầm (Lá diêu bông, Cỏ bồng thi). Đó là mô típ được định hình trong văn học dân gian, đặc biệt là truyện cổ tích và ca dao dân ca. Ở truyện cổ tích, đó là những thử thách đặt ra với nhân vật, nếu vượt qua thử thách sẽ được phần thưởng. Ở ca dao dân ca, thách đố được gửi gắm trong những lời hát đố: đố hoa, đố vật,... Thách đố trong Về Kinh Bắc là đố lá diêu bông, đố cỏ bồng thi: Chị bảo/ đứa nào tìm được lá diêu bông/ từ nay ta gọi là chồng, Ngày mười bảy tuổi/ chót chơi đố cỏ Bồng Thi/ cỏ Bồng Thi phải cheo leo mỏm đá. Nếu câu đố trong ca dao dân ca, dù khó bao nhiêu thì người hát đối vẫn giải được, vì nó chỉ là cái cớ để xây đắp tình duyên lứa đôi. Còn trong truyện cổ tích, thử thách đặt ra cho nhân vật tốt bụng, dẫu có khó khăn bao nhiêu cũng có thể vượt qua bởi được trợ giúp bởi những vật thần kì, thì trong thơ Hoàng Cầm, câu đố là bất khả giải, thực hiện việc thách đố là bất khả thi. Lá diêu bông, cỏ bồng thi là những điều không thực. Nhưng Em thì không được sự giúp đỡ của thần linh. Nhân vật trữ tình chỉ là một cậu bé si tình, đơn thương độc mã. Bởi thế, câu đố trong thơ Hoàng Cầm là câu đố bất khả giải. Hoặc nếu giải được rồi thì cũng không được công nhận: rất nhiều lần nhân vật tìm thấy Lá, nhưng đều bị chị - người thách đố khước từ. Em đã thất bại trong cuộc chơi tình yêu.
    Môtíp thách đố gắn liền với môtíp đi tìm. Vì thách đố là đố để đi tìm (Lá diêu bông). Những vật kiếm tìm có khi rất gần gũi thân thuộc, có khi hư ảo mông lung. Những cuộc đi tìm đều khó khăn, gian nan thử thách, phải đi đầu non cuối bểQua cầu bà Sấm, bến cô Mưa,... Nhưng ta hãy xem kết quả của những cuộc đi tìm: Ở Cỏ bồng thi, tác giả không nói trực tiếp có tìm thấy cỏ hay không, nhưng chỉ qua động tháilắc đầu, qua một từ thôi, người đọc đủ hiểu cuộc kiếm tìm ấy là vô vọng: Lắc đầu hoa tím rụng/ ngó rừng xanh Em hỏi ngọn nguồn/ Biết rồi/ Thôi/ nghe hoa tím hát. Ở Quả vườn ổi, tưởng như vật kiếm tìm kia sắp thuộc về em rồi, nhưng:
    - Xin Chị một quả chín
                                         - Quả chín quá tầm tay
    [size=16]                         - Xin Chị một quả ương[/size]
    [size=16]                                     - Quả ương chim khoét thủng[/size]
    Cả [size=16]quả chín, quả ương đều vượt quá tầm tay. Em mãi mãi không thể chạm tới. Chỉ Cách nhau ba bước mà thực ra là cả một khoảng xa vời vợi không thể vượt qua.[/size]
    Trong những cuộc hành trình tìm kiếm của [size=16]Em, chỉ có duy nhất một lần tìm thấyHai ngày Em tìm thấy Lá/ Chị chau mày/ đâu phải lá Diêu Bông//Mùa đông sau/ Em tìm thấy lá/ Chị lắc đầu/ trông nắng vãn bên sông//Ngày cưới chị/ Em tìm thấy Lá/ Chị cười/ xe chỉ ấm trôn kim// Chị ba con/ Em tìm thấy Lá/ Xoè tay phủ mặt Chị không nhìn. Nhưng đọc kĩ hơn, sự tìm thấy ấy hoàn toàn bị phủ nhận bởi người thách đố, chỉ là sự tìm thấy đơn phương của em. Việc tìm thấy lá chẳng có nghĩa gì người thách đố không công nhận. Khi người thách đố đã rời bỏ cuộc chơi thì vật thách đố cũng không còn ý nghĩa. Bởi thế, nhìn trên bề mặt văn bản: Từ thủa ấy/ Em cầm chiếc . Chiếc lá được tìm thấy ở đây đã không còn là chiếc  viết hoa như trước nữa. Chiếc lá đã bị mất thiêng. Bởi chiếc lá diêu bông chỉ là vật thiêng mà Em có thể đánh đổi cả cuộc đời để kiếm tìm khi nó gắn với phần thưởng thiêng liêng: được là chồng của chị. Nhưng khi chị đã lấy chồng, rồi ba con, thì niềm hi vọng của Em trở thành vô vọng. Chiếc lá – tín chỉ của tình yêu, giờ chỉ là một chiếc lá bị mất giá. Nó chở nặng nỗi đau về hi vọng bị tước đoạt, khát khao hạnh phúc bị chối từ. ỞQuả vườn ổi cũng vậy, từ quả chínquả ương đã bị mất thiêng để trở thành quả rụngEm chỉ nhận được chiếc lá bình thường và dăm quả rụng chiều mưa.[/size]
    Như thế, những cuộc kiếm tìm trong Về Kinh Bắc đều là những cuộc kiếm tìm vô vọng. Cả [size=16]lá diêu bôngquả vườn ổicỏ bồng thi đều là những cấm vật mà Em không bao giờ chạm tới. Vật thiêng (lá diêu bông, quả vườn ổi, cỏ bồng thi) chính là biểu tượng cho tình yêu, hạnh phúc lứa đôi mà nhân vật kiếm tìm. Có thể thấy dấu ấn của mô típ đi tìm vật thiêng trong văn học dân gian ở đây. Trong thần thoại, cổ tích, vật thiêng có thể là thuốc trường sinh, lọ nước thần, tấm da cừu vàng,...Cũng như những vật thiêng trong thơ Hoàng Cầm, chúng đều đem lại hạnh phúc và sự thần diệu cho cuộc sống con người. Để có được những vật màu nhiệm ấy, nhân vật của huyền thoại phải trải qua hành trình nguy hiểm đầy thử thách. Dấu ấn của mô típ tìm vật thiêng được tìm thấy ở Về Kinh Bắc. Nhưng sự khác biệt ở đây là nhân vật trong huyền thoại luôn có sự trợ giúp của lực lượng thần linh. Vì thế, hành trình đi tìm vật thiêng dầu có khó khăn hiểm trở bao nhiêu cũng đều tìm thấy. Còn thơ Hoàng Cầm luôn khép lại trong nỗi hụt hẫng bơ vơ của những câu chuyện không có hậu. Những thi phẩm của Hoàng Cầm mãi mãi là một cổ tích thời hiện đại, với tất cả những hụt hẫng, dang dở, những mơ ước không thành, những khước từ đau xót.[/size]
               Hành trình đi tìm vật thiêng được đặt trong một hành trình lớn hơn, bao quát cả tập thơ: hành trình đi tìm bản thể. Bản thể ấy cũng chính là một vật thiêng mà Hoàng Cầm kiếm tìm[size=16]. Thực chất cuộc tuần du về Kinh Bắc là một cuộc tìm mình. Về Kinh Bắc có rất nhiều những cuộc đi tìm: Đi tìm hướng làng xa, Đi tìm con bướm bạc đầu, Đi tìm tóc rối đổi kẹo, Đi tìm đôi ếch cõng mưa rào, Đi tìm chổi xuể gậm giường um khói, Đi tìm vành khăn chít đầu ngải cứu, Em mười hai tuổi tìm theo chị,...Hoàng Cầm hướng về Kinh Bắc – nơi nguồn cội, quê hương để kiếm tìm bản thể. Cuộc hành trình về Kinh Bắc vì thế không phải là sự chuyển di trong không gian địa lí. Nó là cuộc tuần du trong tâm tưởng để trở về quê hương - nơi lưu giữ tình yêu và tuổi ấu thơ. Đó nguồn cội bình yên, thứ nước lành rửa những vết thương trong đời thực. Hành trình về Kinh Bắc do đó là hành trình trở về với bản lai diện mục của Hoàng Cầm. Trong cuộc đi tìm này, Hoàng Cầm đã thành công. Về với ta – thi phẩm khép lại tập thơ, Hoàng Cầm đã nhận ra bản thể của mình: Ta con phù du ao đời chật chội/ Đứng cánh bèo đo gió lặng tìm sao. Con phù du ấy chính là bản ngã nhà thơ. Phận phù du nhưng mang khát vọng lớn lao, dù đứng ở nơi cánh bèo đầy nênh nổi, nhưng hành động của nó thật phi thường: đo gió, tìm sao.[/size]
               Có thể thấy cuộc đi tìm bản thể của Hoàng Cầm có cả sự gặp gỡ và khác biệt với cuộc đi tìm cái tôi trong Thơ mới. Thơ mới đi tìm cái tôi cá nhân bị đè nén ngàn năm trong đời sống cộng đồng, nhưng càng đi sâu vào cái tôi, Thơ mới càng bất lực. Nói như Hoài Thanh: [size=16]“Đời chúng ta nằm trong vòng chữ tôi. Mất bề rộng ta đi tìm bề sâu. Nhưng càng đi sâu càng lạnh”[12]. Có nhiều lí do, nhưng có thể nhìn thấy một điều căn bản: cái tôi Thơ mới không có điểm tựa quê nhà. Nó là cái tôi vong bản. Ngay cả ở nhà thơ chân quê Nguyễn Bính, thì quê nhà không còn thuần túy là quê nhà nữa mà đã ít nhiều biến thiên trong cuộc va chạm với đô thị phương Tây. Còn Hoàng Cầm tìm thấy bản ngã của mình bởi ông có một nơi chốn để trở về là quê hương Kinh Bắc. Đó là nơi mà sau những chấn thương trong cuộc đời Hoàng Cầm có thể trở về“cầm máu những vết thương”.[13] Ở nơi nguồn cội quê hương, con người tìm thấy bản thể mình. Ở điểm này, Hoàng Cầm đã gặp gỡ với Henry Vaughan trong hai câu thơ đấy ý nghĩa: Và khi tro bụi rơi về/ Trong thinh lặng ấy cận kề quê hương[14].[/size]
    Như vậy, [size=16]Về Kinh Bắc mang dấu ấn của tư duy dân gian khi sử dụng các mô típ truyền thống. Những mô típ này vừa được bảo lưu, vừa được dịch chuyển trong tư duy thơ hiện đại tạo nên dấu ấn riêng cho những mô típ thơ của Hoàng Cầm.[/size]
    2.4. Tư duy dân gian được còn được thể hiện rõ nét qua các lễ hội dân gian. Tập thơ dành hẳn một nhịp [size=16]Điểm trang để nói về những hội hè Kinh Bắc. Không khí lễ hội dân gian của một vùng quê được gợi lên sống động trong tập thơ với những: thi sợi bún, thi ăn mía thổi cơm, thi đánh đu, thi hát đúm, thi dệt vải, thi thêu gấm, hội chen Nga hoàng, hội Gióng, hội Long Khám, hội Vân Hà, hội đền Tám vua triều Lý. Nhưng cái cốt yếu của Hoàng Cầm không phải là tái hiện lại không khí lễ hội dân gian, dựng lên những bức tranh quê như Anh Thơ hay Đoàn Văn Cừ đã làm thời Thơ mới mà là qua lễ hội để nói đến những khát khao tình dục, những ẩn ức của con người trong trong ngày thường bị đè nén: Ngửa mặt hứng mưa đồi cỏ ngát/ Nguôi dần cơn sốt bỏng môi hoa, Đùi chảy búp dài thon nhún vội/ Bàng hoàng tia chớp liệng nghiêng xanh, Vải gột hồ hai má gột môi hoang, Sân đình/ lại Thị Mầu í a tung tình/ rung rinh/ chờ,...Hội hè Kinh Bắc bảo lưu tín ngưỡng phồn thực - một trong những tín ngưỡng mang sức sống mạnh mẽ của dân gian.[/size]
    3. Như vậy, tư duy nghệ thuật của Hoàng Cầm trong [size=16]Về Kinh Bắc mang đậm dấu ấn của tư duy dân gian từ tâm lí sáng tạo, cách nhìn thế giới, dạng thức cái tôi trữ tình đến cách sử dụng các mô típ dân gian và việc bảo lưu các tín ngưỡng nguyên thủy. Lối tư duy dân gian qua màng lọc của tư duy nghệ thuật hiện đại đã tạo nên giá trị riêng cho Về Kinh Bắc và cũng làm nên dấu ấn riêng của Hoàng Cầm trong văn học đương đại.[/size]
    hnue.edu.vn


      Hôm nay: 23rd November 2024, 09:22