Ở miền Nam ta hay nghe nói tới Miệt Vườn, và thường hiểu Miệt Vườn nôm na là vùng đồng ruộng, vườn tược đồng bằng sông Cửu Long nói chung. Còn từ Miệt Thứ coi vậy mà ít người nghe nói, ngay cả khi tôi hỏi những người bạn quê quán, gốc gác Nam bộ.
Sách Đại Nam Quấc Âm Tự Vị của Huình Tịnh Paulus Của giải thích chữ Miệt:
- Miệt. Nhỏ mọn, xứ miền, một dãy đất.
Đại Nam Quấc Âm Tự Vị còn phân biệt Miệt vườn và Miệt ruộng:
- Miệt vườn: Miền vườn, đất vườn.
- Miệt ruộng: Miền ruộng, xứ ruộng, phường ruộng.
Sông nước Miệt Vườn. Ảnh Internet.
Nhà văn, học giả Sơn Nam (1926-2008), một người được mệnh danh là "Ông già Nam bộ", "Nhà Nam bộ học", đã viết về vùng đồng bằng sông Cửu Long như sau:
Người ở đồng bằng sông Cửu Long đã phân tích khá tỉ mỉ những nét đặc biệt của từng vùng nhỏ trong đồng bằng. Họ gọi riêng rẽ:
- Miệt trên: vùng Biên Hòa, Gia Định, Bà Rịa có thể tính luôn vùng Tân An.
- Miệt Cao Lãnh: vùng chợ Cao Lãnh ngày nay, trước kia là quận lỵ của Sa Đéc.
- Miệt Đồng Tháp Mười.
- Mỹ, Vãng: Mỹ Tho, Vĩnh Long.
- Miệt Dưới: vùng Rạch Giá, Cà Mau.
- Miệt chợ Thủ, Miệt Ông Chưởng, theo lòng Ông Chưởng, nối sông Hậu qua sông Tiền, tỉnh Long Xuyên.
- Miệt Xà Tón, Bảy Núi, tức là vùng Thất Sơn và quận lỵ Tri Tôn (Châu Đốc).
- Miệt Hai Huyện (cũng là miệt Chợ Thủ, Ông Chưởng).
- Miệt Vườn, gọi tổng quát những vùng cao ráo, có vườn cam vườn quýt ở ven sông Tiền, sông Hậu, thuộc tỉnh Sa Đéc, Vĩnh Long, Mỹ Tho, Cần Thơ.
- Miệt Vườn tiêu biểu cho hình thức sinh hoạt vật chất và tinh thần cao nhất ở đồng bằng sông Cửu Long. Chúng ta đã nghe những danh từ:
- Về vườn,
- Gái vườn,
- Công tử vườn, điếm vườn,
- Bắp vườn, nhà vườn.
...................
Hồi trước năm 1975 bạn nào ở Saigon chắc có nghe từ "Dân chơi miệt vườn", có lẽ ý nghĩa tương đương với từ "Công tử vườn" trong sách của nhà văn Sơn Nam. Một "Công tử vườn" vang danh thiên hạ xưa nay mà người dân Nam bộ ai cũng biết tiếng, đó là "Công tử Bạc Liêu" Trần Trinh Huy (1900-1974), còn gọi là Ba Huy và có biệt danh là Hắc Công Tử, người nức tiếng ăn chơi một thời, đã dám sắm và lái máy bay đi thăm ruộng vườn của gia đình.
Như vậy theo nhà văn Sơn Nam, thì Miệt Vườn là những vùng đất cao ráo, có vườn cam vườn quýt ở ven sông Tiền, sông Hậu, thuộc tỉnh Sa Đéc, Vĩnh Long, Mỹ Tho, Cần Thơ. Nhà văn Sơn Nam cũng cho biết Miệt Vườn là nơi có mật độ dân số cao nhất vùng đồng bằng sông Cửu Long, được tạo lập trên những đất gò, đất giồng, đất vườn phù sa rất tốt, thích hợp trồng cây ăn trái, người dân quê làm vườn đỡ vất vả mà dễ kiếm ăn hơn làm ruộng, cuộc sống khá sung túc. Cho nên nhìn trên bản đồ thấy ở Miệt Vườn có rất nhiều địa danh, nhiều chợ quận, chợ làng.
Thế còn Miệt Thứ?
Như đã nói bên trên, hơi lạ là khi hỏi về Miệt Thứ, vài người bạn hoặc người quen biết gốc gác miền Tây Nam bộ của tôi lại không biết, có người còn nói chưa nghe nói đến tên Miệt Thứ bao giờ. Trong sách của nhà văn Sơn Nam có nói đến Miệt Thứ. Ông viết:
Đại Nam Nhứt Thống Chí chép đó là vùng "Lâm Sác", vùng Thập Câu, giới bình dân gọi nôm na đó là Miệt Thứ, là ven U Minh. Thập Câu là mười con rạch mang tên là rạch thứ Nhứt, rạch Thứ Hai... rạch thứ Mười chảy song song từ vùng đất thấp U Minh Thượng ra biển, gọi là "thập" nhưng trong thực tế hơn mười con rạch. Người địa phương lần hồi khai thác và khám phá thêm, thí dụ như rạch thứ chín rưỡi (giữa rạch thứ Chín và thứ Mười) hoặc rạch Xẻo Vẹt, Xẻo Ngát, Chà Và giả, Chà Và thiệt, rạch Ổ Heo, rạch Nằm Bếp, rạch Kim Quy...
.........................
Đây là vùng đất vào thời trước rất xa xôi, hiểm trở với nhiều thú dữ và bệnh tật, là nơi dừng chân cuối cùng của người dân Việt trên con đường Nam tiến, người dân chỉ đến khai thác vùng này từ sau năm 1870. Ở vùng Miệt Thứ ruộng xấu năng xuất kém, đất thấp nhiều muỗi mòng, nhưng được một cái ở Miệt Thứ những thức ăn như kỳ đà, rắn, lươn, cua, cá lóc, tôm, đuông chà là nhiều đến mức ê hề, người sành điệu tha hồ mà chế biến, có lẽ dân miền Tây nhậu giỏi cũng nhờ "mồi nhậu" chế biến từ những "đặc sản" này.
Miệt Thứ thời ấy xa xôi cách trở quá, cho nên cô gái Miệt Vườn theo chồng về Miệt Thứ có tâm sự:
Đêm đêm ra đứng hàng ba,
Trông về quê mẹ lệ sa buồn buồn.
Sương khuya ướt đẫm giàn bầu,
Em về Miệt Thứ bỏ sầu cho ai?
Còn cô gái ở miền Miệt Thứ Cà Mau lại bày tỏ:
Mẹ mong gả thiếp về vườn,
Ăn bông bí luộc, dưa hường nấu canh.
Trong sách của Bùi Đức Tịnh (1923-2008), một học giả, nhà giáo, nhà báo quê ở Ba tri - Bến Tre, sách của ông viết nhiều về đủ mọi thể loại (Văn học sử, Văn học, Ngôn ngữ học, Địa danh Nam bộ...) cũng có viết về Thứ và Miệt Thứ:
- Thứ: Danh từ dùng riêng trong vùng Rạch Giá, Cà Mau để gọi 9 con rạch đổ ra vịnh Thái Lan bắt đầu từ chỗ gần sông Cái Lớn (Rạch Giá) xuống đến Khánh Lâm (Cà Mau). Ngọn rạch gần sông Cái Lớn nhất gọi là Thứ Nhứt, rồi đến Thứ Nhì, Thứ Ba... cho đến Thứ Chín.
Cũng cần phân biệt vùng có những con rạch đến thứ chín này là khu vực Thới Bình, Huyện Sử (tên một ngôi chợ) với khu vực gọi là "Miệt Thứ" thuộc quận Năm Căn ngày trước. Đây là vùng U Minh Hạ có 12 con kinh đưa vào rừng lấy củi, ăn ong (lấy mật ong), được gọi theo thứ tự từ kinh 1 đến kinh 12.
.........................
.........................
Nói chung qua hai học giả người Nam bộ chuyên viết vùng đồng bằng sông Cửu Long, ta thấy:
- Miệt Vườn: để chỉ vùng đất cao giồng, gò có vườn cam vườn quýt (vườn trái cây)ven sông Tiền, sông Hậu, thuộc tỉnh Sa Đéc, Vĩnh Long, Mỹ Tho, Cần Thơ, đây là vùng đất màu mỡ, trù phú, người dân Việt Nam đến định cư tại vùng này khá sớm, cuộc sống sung túc.
- Miệt Thứ: là vùng đất thuộc vùng U Minh, Cà Mau, nơi có hơn mười con rạch mang tên rạch thứ Nhứt, rạch thứ Hai... (theo nhà văn Sơn Nam), hoặc mười hai con kinh gọi theo thứ tự từ kính đến kinh 12 (theo học giả Bùi Đức Tịnh). Chữ Thứ ở đây là theo thứ tự của các con rạch, con kinh. Vùng này thời trước xa xôi, hiểm trở, dân cư thưa thớt, nghèo nàn bệnh tật... với nhiều hiểm nguy, còn truyền lại trong những câu ca dao:
Chèo ghe sợ sấu cắn chưn,
Xuống sông sợ đỉa lên rừng sợ ma.
Hoặc:
Tới đây xứ, sở lạ lùng,
Chim kêu cũng sợ, cá vùng cũng ghê.
Cà Mau khỉ khọt trên bưng,
Dưới sông sấu lội, trên rừng cọp um.
Cà Mau khỉ khọt trên bưng,
Dưới sông sấu lội, trên rừng cọp um.
Bây giờ những từ ngữ, địa danh như Miệt Vườn, Miệt Thứ đã dần trở thành quá khứ ít được nhắc tới, bởi đâu đâu cũng đã là thành phố. Cách nay vài chục năm (trước năm 1975) ở miền Nam, thì từ "thành phố" được mặc nhiên để chỉ Saigon. Thời đó tôi có dịp đến những tỉnh duyên hải, cao nguyên miền Trung, hay về miền Tây Nam bộ, người ta gọi Saigon là "thành phố", người Saigon là "người thành phố, dân thành phố", và khi người ở những địa phương ấy nói "đi chơi thành phố" ai cũng hiểu là "đi chơi Saigon".
Một từ khác chỉ địa danh ở miền Tây Nam bộ hồi đó cũng hay được người dân Saigon nói, với ngụ ý để chỉ một nơi xa xôi hẻo lánh, khỉ ho cò gáy, bây giờ gọi là "vùng sâu vùng xa", hoặc dùng để chê bai ai đó "cù lần lửa, quê cời quê kệch". Những ai là công chức hay trực thuộc quân đội bị chuyển đi đến những nơi như thế, thường được ví von là "đi Chắc Cà Đao", còn anh chàng nào dưới quê mới lên Saigon còn ngờ nghệch, được ví là "gia đó ở Chắc Cà Đao mới lên". Nhưng cũng ít người rõ nơi này ở đâu. Trang văn Học và Ngôn Ngữ của Trường Đại Học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn - TP. HCM cho biết:
"Đó là tên một con rạch, cũng là tên một ngôi chợ nhỏ (nay là thị trấn An Châu) gần Long Xuyên (An Giang). Học giả Vương Hồng Sển có ghi lại hai giải thích về tên gọi Chắc Cà Đao:
Theo ông Nguyễn Văn Đính, thì địa danh Chắc Cà Đao có thể do chữ Khmer chắp kdam (bắt cua) mà ra vì vùng này xưa kia có nhiều cua. Theo nhà văn Sơn Nam, Chắc Cà Đao do chữ Prek Pedao; Prek: rạch; Pedao: loại dây mây; rạch có nhiều dây mây.
Và ông nghĩ rằng giả thuyết của Nguyễn Văn Đính hợp lý hơn".
Một từ khác chỉ địa danh ở miền Tây Nam bộ hồi đó cũng hay được người dân Saigon nói, với ngụ ý để chỉ một nơi xa xôi hẻo lánh, khỉ ho cò gáy, bây giờ gọi là "vùng sâu vùng xa", hoặc dùng để chê bai ai đó "cù lần lửa, quê cời quê kệch". Những ai là công chức hay trực thuộc quân đội bị chuyển đi đến những nơi như thế, thường được ví von là "đi Chắc Cà Đao", còn anh chàng nào dưới quê mới lên Saigon còn ngờ nghệch, được ví là "gia đó ở Chắc Cà Đao mới lên". Nhưng cũng ít người rõ nơi này ở đâu. Trang văn Học và Ngôn Ngữ của Trường Đại Học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn - TP. HCM cho biết:
"Đó là tên một con rạch, cũng là tên một ngôi chợ nhỏ (nay là thị trấn An Châu) gần Long Xuyên (An Giang). Học giả Vương Hồng Sển có ghi lại hai giải thích về tên gọi Chắc Cà Đao:
Theo ông Nguyễn Văn Đính, thì địa danh Chắc Cà Đao có thể do chữ Khmer chắp kdam (bắt cua) mà ra vì vùng này xưa kia có nhiều cua. Theo nhà văn Sơn Nam, Chắc Cà Đao do chữ Prek Pedao; Prek: rạch; Pedao: loại dây mây; rạch có nhiều dây mây.
Và ông nghĩ rằng giả thuyết của Nguyễn Văn Đính hợp lý hơn".
Tham khảo:
- Đồng bằng sông Cửu Long - Nét sinh hoạt xưa & Văn minh Miệt Vườn, Sơn Nam, NXB Trẻ-2014.
- Lược khảo nguồn gốc Địa danh Nam Bộ, Bùi Đức Tịnh, NXB Văn Nghệ TP. HCM-1999.
blog ngochieppham