Learn

The forum of documents and methods for studying - Lượm lặt kiến thức


    TẠI SAO GỌI LÀ “TÚ-LƠ-KHƠ”?

    QaniTri
    QaniTri
    Admin

    Nam Libra Monkey
    Tổng số bài gửi : 1568
    Tiền xu Ⓑ : 3891
    Được cảm ơn № : 6
    Ngày khởi sự Ngày khởi sự : 07/01/2013
    Đến từ Đến từ : HCMC
    Côngviệc / Sởthix Côngviệc / Sởthix : Languages, Softwares, Sciences, Martial arts

    TẠI SAO GỌI LÀ “TÚ-LƠ-KHƠ”? Empty TẠI SAO GỌI LÀ “TÚ-LƠ-KHƠ”?

    Bài gửi by QaniTri 1st January 2022, 19:29

    TẠI SAO GỌI LÀ “TÚ-LƠ-KHƠ”? Artboard-2-f

    Lính Nga chơi bài Poker khi hạ bài thường nói “Durak”. Lính Trung Quốc bắt chước nói từ này theo âm tiếng Trung phổ thông thành “Tu-la-khơ”. Lính ta đọc trại âm thành “Tú lơ khơ”.
    Trong tiếng Việt ngày nay, trò chơi Poker được gọi là “Tú lơ khơ”. Con đường để từ Poker vào tiếng Việt bắt đầu từ tiếng Pháp, qua tiếng Nga, tiếng Trung phổ thông rồi mới thành Tú lơ khơ trong tiếng Việt. Vậy tại sao người Việt lại không gọi là “Poker” mà lại là “Tú lơ khơ”?
    TẠI SAO GỌI LÀ “TÚ-LƠ-KHƠ”? Poker.cards-min
    Tú lơ khơ là một cỗ bài gồm 54 quân theo các quy ước khác nhau về giá trị. Thứ bài này chúng ta thường gọi là tú lơ khơ (hay tú la khơ), nhiều khi còn nói gọn là : đánh tú, chơi tú (hiện nay người còn sáng tạo ra nhiều trò giải trí rất hấp dẫn dựa trên cỗ bài này, đánh chắn, chơi tá lả chẳng hạn). Vào đầu thế kỉ 20, dân ta hay gọi là bài tây. Lí do là trò chơi này được du nhập từ phương Tây, giống như các loại vật dụng, hàng hoá khác, như khoai tây, dầu tây, quần áo tây, bánh tây (bánh mì),… đều do “người Tây” mang sang cả. Một số kẻ cờ gian bạc lận hay dùng bài tây để lừa bịp những người nhẹ dạ. Vì vậy dân gian ta trước đây có câu “liến thoắng như bọn bài tây”. Dần dần, tên gọi “ích xì” thay cho tên gọi “bài tây’. Đó là tiếng biến âm của từ Pháp AS (quân át chủ trong cỗ bài cũng do từ “as” này mà ra). Từ này lại bắt nguồn từ tiếng Latin, vốn là tên gọi của đơn vị tiền tệ của người La Mã cổ. Nhưng từ đâu mà có từ tú lơ khơ? Đây hoàn toàn không phải là phiên âm cách đọc nguyên gốc của một từ ngoại quốc nào, chẳng hạn như tiếng Anh hoặc tiếng Pháp.
    Theo lời cố PGS Nguyễn Kim Thản, thì từ năm 1950 -1951 trở đi, từ tú lơ khơ mới bắt đầu xuất hiện ở Việt Nam, thoạt tiên là ở khu căn cứ Việt Bắc, rồi lan dần ra khắp miền Bắc nước ta và cứ thế truyền rộng ra cả nước. Tên gọi này do sự tiếp xúc của chiến sĩ, cán bộ, nhân dân ta với các chiến sĩ Giải phóng quân Trung Quốc và hạt nhân của họ là Bát Lộ Quân (thành lập tại Diên An thời chiến tranh chống Nhật). Lúc đó, các chiến sĩ và sĩ quan Liên Xô sang làm việc tại Diên An thời ấy, khi chơi ích xì, đến những phút chót quyết định sự được thua của mỗi ván, lúc lật quân bài quật xuống chiếu, họ thường hay chế nhạo và đùa nhau bằng câu nói “Вот дурак! (Vot, durak!)” (tiếng Nga: Xem này, thằng ngốc!). Nói mãi thành quen tai, như một phản xạ ăn vào tiềm thức, các chiến sĩ Bát Lộ Quân liền tiện mồm gọi thứ bài này là bài “tu-la-khơ”, do phiên trại âm từ “durak”, thay cho từ “phu-khơ” (phiên từ tiếng Anh: poker) dùng khá rộng rãi ở vùng ngoài căn cứ địa (Tiếng Hán phổ thông không có các âm vị /d/ và /r/; khi phiên âm, người ta thay thế chúng bằng /t/ và /l/, như phiên đồ rê mi thành tồ lê mi, do đó mà durak đu ra khơ thành tu la khơ). Rồi tên gọi ấy truyền đến cán bộ và chiến sĩ Việt Nam trong hoàn cảnh đã nói ở trên, và nó tiếp tục bị đọc trại âm một lần nữa thành “tu lơ khơ”, hoặc “tú lơ khơ”.
    Vậy, nói vắn tắt: Lính Nga chơi bài Poker khi hạ bài thường nói “Durak”. Lính Trung Quốc bắt chước nói từ này theo âm tiếng Trung phổ thông thành “Tu-la-khơ”. Lính ta đọc trại âm thành “Tú lơ khơ”.
    Thế còn các tên gọi (mà ta thường nói là chất bài), là rô, cơ, nhép, pích có xuất xứ và ý nghĩa gì? Hẳn là chúng phải bắt nguồn từ một nguyên cớ nào chứ? Vì ta nhập “bài tây” từ nước Pháp, cho nên cũng dễ hiểu là các tên gọi ấy cũng được nhập từ tiếng Pháp.
    TẠI SAO GỌI LÀ “TÚ-LƠ-KHƠ”? Artboard-2-f
    Nhép (tép) phiên trại âm từ trèfle vốn là tên gọi của một thứ cỏ, họ lá kép gồm ba lá con (trèfle có nguồn gốc Hi Lạp, vốn gồm treis (ba) và phullon (lá)).  là cách phiên trại âm và nói tắt của từ carreau (ca-rô), tiếng Pháp có nghĩa là “vuông” (gốc Latin của nó là quadrus, cũng có nghĩa là “vuông”).  là phiên âm của từ coeur (gốc Latin là cor) có nghĩa là “trái tim”. Còn pích là phiên âm của từ pique có nghĩa là “ngọn giáo, mũi giáo”. Người Pháp đặt ra và dùng bốn tên gọi từ những năm cuối thế kỉ 15 và điều thú vị là trò chơi giải trí này lại được họ nhập về từ phương Đông (Ấn Độ).
     
    (Bài viết của PGS. TS. Phạm Văn Tình trên báo Lao động – tuy nhiên, đường link hiện nay không còn truy cập được nữa)


    http://nguyenvietkhoa.edu.vn/2015/04/12/tai-sao-goi-la-tu-lo-kho/
    QaniTri
    QaniTri
    Admin

    Nam Libra Monkey
    Tổng số bài gửi : 1568
    Tiền xu Ⓑ : 3891
    Được cảm ơn № : 6
    Ngày khởi sự Ngày khởi sự : 07/01/2013
    Đến từ Đến từ : HCMC
    Côngviệc / Sởthix Côngviệc / Sởthix : Languages, Softwares, Sciences, Martial arts

    TẠI SAO GỌI LÀ “TÚ-LƠ-KHƠ”? Empty Re: TẠI SAO GỌI LÀ “TÚ-LƠ-KHƠ”?

    Bài gửi by QaniTri 1st January 2022, 19:30

    Bộ bài Tây


    Bách khoa toàn thư mở Wikipedia



    Bước tới điều hướngBước tới tìm kiếm
    [ltr]TẠI SAO GỌI LÀ “TÚ-LƠ-KHƠ”? 200px-Pack_of_playing_cards_whitebg
    Bộ bài Tây (ở miền Bắc Việt Nam còn gọi là tú lơ khơ hoặc bộ ) - bao gồm có 54 lá bài (có bộ bài chỉ có 52 lá), trong đó có 52 lá thường: 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, J, Q, K, A, kết hợp với 4 chất: cơ, rô, nhép/chuồn/tép, bích và hai lá Joker - phăng teo.
    Ở Việt Nam, thường gọi bộ bài này là bộ bài Tây vì xuất xứ từ Tây phương và để phân biệt với bộ bài ta (để chơi Tam cúc, tứ sắc, tổ tôm,...). Họa tiết phổ biến của bộ bài tây hiện nay là từ bộ bài tây của Pháp.[/ltr]

    Lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]

    Thời sơ khai[sửa | sửa mã nguồn]

    TẠI SAO GỌI LÀ “TÚ-LƠ-KHƠ”? 100px-Ming_Dynasty_playing_card%2C_c._1400

    Lá bài của Trung Quốc thời xưa, khoảng năm 1400.

    Bộ bài xuất hiện đầu tiên ở Trung Quốc [1][2][3][4] vào khoảng thế kỷ thứ IX thời kỳ nhà Đường.[5][6][7] Trò chơi này được làm bằng giấy.
    Bài lá được nói đến lần đầu trong lịch sử vào thế kỷ trong cuốn Collection of Miscellanea at Duyang của tác giả Su E, mô tả công chúa Tongchang, con gái Đường Ý Tông, chơi "bài lá" năm 868 với các thành viên gia đình nhà chồng.[4][8][9]:131 Thời nhà Tống, học giả Âu Dương Tu cho rằng bài lá đã có từ thời Trung Đường[2][3][4]
    Trong âm Hán Việt, từ bài (牌) được dùng để mô tả cả hai loại giấy và các quân tú lơ khơ để chơi. Có lẽ các kiểu của bộ bài hiện đại ở Châu Âu đến từ các quốc gia của Ai Cập vào cuối năm 1300, trong đó thời gian của họ đã giả định một hình thức giống như vậy được sử dụng ngày nay. Mỗi bộ bài có 54 lá.

    Lá bài[sửa | sửa mã nguồn]

    TẠI SAO GỌI LÀ “TÚ-LƠ-KHƠ”? 300px-Svg-cards-2.0.svg

    Một bộ bài tây cơ bản nguồn gốc từ Pháp, gồm 54 lá bài.

    Họa tiết của bộ bài tây thường xuất hiện ở Việt Nam hiện nay có nguồn gốc từ Pháp. Một bộ cơ bản có 54 lá bài, trong đó có 52 lá thường: 2 - 3 - 4 - 5 - 6 - 7 - 8 - 9 - 10 - J (Jack) - Q (Queen) - K (King) - A (Ace) kết hợp với 4 chất: hai chất đỏ là  và , 2 chất đen là Tép (môt số nơi gọi là Nhép hoặc Chuồn) và Bích, cùng hai lá Joker (hay còn gọi là phăng teo).
    Hai lá Joker ít khi được chơi tại Việt Nam, nhưng đôi khi nó lại là lá bài quan trọng (đóng vai trò như "lá bài định mệnh") trong một số trò như Old Maid.

    Các kiểu chơi phổ biến[sửa | sửa mã nguồn]

    Phần lớn trong các cách chơi dưới đây chỉ sử dụng 52 lá bài, không dùng tới 2 quân phăng teo:

    • Xì dách

    • Xì tố

    • Tiến lên

    • Tấn

    • Mậu binh

    • Canasta

    • Ba cây

    • Liêng

    • Sâm

    • Cát tê

    • Phỏm


    Ứng dụng[sửa | sửa mã nguồn]

    Chơi bài giải trí[sửa | sửa mã nguồn]

    TẠI SAO GỌI LÀ “TÚ-LƠ-KHƠ”? 200px-Playing_cards_modified

    Mặt sau của bộ bài

    Tiến lên[sửa | sửa mã nguồn]

    Bài chi tiết: Bài tiến lên
    Bộ bài có 52 lá.
    Bài tiến lên bạn chia mỗi người 13 lá. Vậy 4 người là đủ một sòng. Loại bài này 3 bích là nhỏ nhất, 2 cơ là lớn nhất. Cơ, rô, chuồn, bích theo thứ tự nhỏ dần, ví dụ 5 cơ lớn hơn 5 rô, 5 chuồn lớn hơn 5 bích, 5 cơ lớn hơn 5 chuồn,... hai lá giống nhau gọi là đôi, các lá kế tiếp nhau gọi là sảnh (hay bộ dọc), 345 là sảnh nhỏ nhất và vì có 3 lá nên gọi là sảnh 3 cây, cứ như vây có 4, 5, 6... 12 sảnh. Sảnh lớn đè sảnh nhỏ, đôi lớn đè đôi nhỏ theo nguyên tắc cơ rô chuồn bích. Bốn quân cùng số gọi là tứ quý chặt được hai (trong cách chơi miền Nam, ba đôi liền nhau gọi là ba đôi thông chặt được một heo, bốn quân bài cùng số là tứ quý chặt được hai heo và ba đôi thông, bốn đôi thông thì lớn hơn tứ quý và ba đôi thông...) Cứ thế đánh ai hết bài trước là thắng. Bài này dễ đánh, bạn càng đánh càng có kinh nghiệm và chơi hay hơn.

    Bài cào[sửa | sửa mã nguồn]

    Bài chi tiết: Bài cào
    Bài cào hay gọi là bài 3 lá chơi bằng cách đếm nút, ví dụ 123 cộng lại 6 nút. Ai cao nút hơn thì thắng. 10, 20 nút gọi là bù, thấp nhất. Ba con JQK đi liền nhau thì gọi là ba tây, ba tiên hay ba cào... Nó lớn hơn 9 nút.

    Tấn[sửa | sửa mã nguồn]

    Bài chi tiết: Bài tấn
    Mỗi người có 8 quân bài. Sau khi chia xong bài thì con bốc lên là chất nào thì chất đó là chất chủ, được đặt ngửa ở giữa, chồng quân bài còn lại xếp úp đè lên nhưng được đặt chệch đi để mọi người nhìn rõ chất chủ của từng ván bài.
    Từng người một tấn người bên cạnh theo vòng tròn. Người tấn ra bất kỳ lá nào, người bị tấn phải đỡ lá bài đó bằng một lá khác cùng chất và số lớn hơn, không có thì đỡ trưởng. Những người còn lại tấn người bị tấn bằng con bài có số bằng một trong các con bài trước. Nếu tấn mà thiếu bài thì bốc thêm số quân bài còn thiếu ở phần bài úp lên để đánh tiếp và làm cho đến khi hết bài.
    Một lượt tấn kết thúc khi người tấn và 2 người còn lại không còn con tương tự (số bằng nhau) hoặc có nhưng không muốn đưa ra (con chủ, lá bài có số to...) hoặc người bị tấn không thể đỡ được nữa. Trong trường hợp không thể đỡ được nữa thì người bị tấn phải lên tất cả các con bài mà những người kia tấn cho mình. Nếu người bị tấn không phải lên thì có quyền tấn người kế tiếp theo vòng. Sau mỗi một lượt tấn, mỗi người phải bốc cho đủ 8 quân bài trên tay theo thứ tự ưu tiên: người tấn, người bị tấn, người kế người bị tấn và người còn lại. Ngược lại, quyền tấn kế tiếp dành cho người kế cạnh. Ai hết bài trước là thắng.
    Bài tấn còn có thể chơi theo bè: cứ 2 người ngồi đối diện là 1 bè, 4 người chơi có 2 bè. Chơi bè sẽ giảm tải cho người bị tấn, chỉ bị 2 người tấn công thay vì 3 như khi chơi lẻ. Thứ tự về 1-2-3-4 của 4 người sẽ xác định bên thắng: Nếu một bên có một người về nhất, người kia về bét, còn bè kia một người về nhì, một người về ba thì ván đó hòa.

    Tá lả/Phỏm[sửa | sửa mã nguồn]

    Bài chi tiết: Phỏm
    Tá lả/Phỏm chia một người 10 quân, những người còn lại 9 quân. Nhà có 10 quân đánh đầu tiên 1 cây bất kỳ. Nhà sau có thể ăn được cây đó ghép vào những cây mình đang có (2 cây) để tạo được "phỏm" thì là hợp lệ. Phỏm là 3 quân giống nhau hoặc 3 quân đồng chất (Ví dụ: 3 cây át, 3 cây 2 hoặc 2-3-4 rô, 5-6-7 cơ). Nếu không ăn được thì "bốc nọc", và quân bốc nếu có thể ghép được thành phỏm thì đánh cây lẻ đi. Mục đích chờ ăn, bốc nọc tạo được càng nhiều phỏm càng tốt và không cho nhà dưới ăn cây của mình tránh bị mất cược ăn cây và bị đền
    1. Phân biệt thắng thua, mức cược
    - Sau khi hạ phỏm, nhà nào còn ít điểm nhất là thắng
    - Khi có nhà ù. Ù là khi nhà đó có 3 phỏm trên tay là thắng làng luôn.
    - Ù tròn: Là khi nhà đó có 3 phỏm, trong đó có 1 phỏm 4 cây hoặc hạ được 3 phỏm và gửi đi cây lẻ còn lại vào phỏm nhà khác. Trường hợp gửi chỉ dành cho người hạ sau, gửi phỏm thì gửi vào bất kỳ nhà nào hạ trước có phỏm mà mình có cây gửi vào để ghép thêm phỏm
    - Móm: Là khi nhà đó không có phỏm nào trên tay. Với trường hợp nhiều nhà móm thì ai móm đầu tiên, hạ đầu tiên là thắng và ăn theo cược móm chứ không phải cược nhất, nhì, ba
    2. Các trường hợp bị phạt (mức phạt tùy quy định từng nơi chơi)
    - Ăn láo: Ăn cây mà không ghép được phỏm
    - Ù đền: Là khi nhà trên đánh cho nhà dưới ăn 3 cây liền thì bị đền thay cho 2 nhà còn lại. Hoặc khi nhà trên hạ, hết vòng đánh. Nhà dưới ăn cây lẻ nhà trên đánh (cây chốt) làm cho họ được thêm lượt đánh, sau đó họ ù thì nhà ăn cây chốt sẽ bị đền làng.

    Klondike/Solitaire[sửa | sửa mã nguồn]

    Bài chi tiết: Klondike (trò chơi)
    Klondike/Solitaire là trò chơi dành cho một người, Loại bài này A là nhỏ nhất, K là lớn nhất. Cơ, rô, chuồn, bích không theo thứ tự.
    Mục tiêu là đưa hết các quân bài lên bốn ngăn trên.

    Bói[sửa | sửa mã nguồn]

    Ngoài chơi bài giải trí, người ta còn dùng tú lơ khơ để bói, gọi là bói bài Tây. Trong đó, từng chất và từng quân bài có ý nghĩa khác nhau:

    • Rô tương ứng "đời"

    • Cơ tương ứng "tình"

    • Bích tương ứng "tai nạn"

    • Nhép tương ứng với "tiền"


    Có nhiều cách xem bói bài tây khác nhau.

    Liêng[sửa | sửa mã nguồn]

    Bài chi tiết: Đánh Liêng
    Liêng là một trong những kiểu chơi bài lá hiện nay rất phổ biến Việt Nam. Chơi bài Liêng dùng bộ bài tây 52 lá để chơi
    Lưu ý: bộ J,Q,K với sự sắp xếp bất kỳ được tính là đĩ
    Thứ tự các xấp bài theo độ lớn từ thấp đến cao là đĩ,liêng,sáp.

    Ảo thuật[sửa | sửa mã nguồn]

    Bạn có thể ảo thuật với 1 số trò thú vị nhằm giải trí cho mình và cho khán giả


      Hôm nay: 3rd May 2024, 04:49