Learn

The forum of documents and methods for studying - Lượm lặt kiến thức


    THƠ XUÂN CỦA TIẾN SĨ THÁI THUẬN - TRIỀU LÊ - Dịch thơ: Nguyễn Hữu Thăng

    avatar
    congdantoancau

    Tổng số bài gửi : 633
    Tiền xu Ⓑ : 1732
    Được cảm ơn № : 27
    Ngày khởi sự Ngày khởi sự : 12/05/2014

     THƠ XUÂN CỦA TIẾN SĨ THÁI THUẬN - TRIỀU LÊ - Dịch thơ: Nguyễn Hữu Thăng Empty THƠ XUÂN CỦA TIẾN SĨ THÁI THUẬN - TRIỀU LÊ - Dịch thơ: Nguyễn Hữu Thăng

    Bài gửi by congdantoancau 3rd September 2014, 18:09

     THƠ XUÂN CỦA TIẾN SĨ THÁI THUẬN - TRIỀU LÊ - Dịch thơ: Nguyễn Hữu Thăng Tthuan



    ĐÔI NÉT VỀ NHÀ THƠ THÁI THUẬN
    Thái Thuận (1441-?), tự: Nghĩa Hòa, hiệu: Lục Khê, biệt hiệu: Lã Đường; là nhà thơ Việt Nam thời Hậu Lê.
    Ông sinh ra trong một gia đình bình dân ở thôn Đoài, tổng Liễu Lâm, phủ Siêu Loại, thừa tuyên Kinh Bắc (nay thuộc xã Song Liễu, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh).
    Thuở trai trẻ, có thời ông làm lính dạy voi, về sau mới đi học. Năm Ất Mùi (1475), đời Lê Thánh Tông, ông thi đỗ Tiến sĩ.
    Ban đầu, ông làm quan ở Viện Hàn lâm trải 20 năm; sau giữ chức Tham chính sứ Hải Dương, và được cử đi công cán qua các vùng Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Bình, Quảng Trị, Thuận Hóa...
    Ông là người có đạo đức, lại có tài văn chương, được người đương thời rất kính trọng. Vì vậy, ông được vua Lê Thánh Tông cho dự chức Tao đàn Sái phu (sau thăng Tao đàn phó nguyên súy) trong Hội Tao Đàn do chính nhà vua thành lập năm 1495.
    Nhà thơ Thái Thuận mất năm nào không rõ.
    Sinh thời, ông sáng tác hàng nghìn bài thơ chữ Hán, nhưng chưa soạn thành tập. Sau khi ông mất, người con là Thái Đôn Khác và người học trò là Đỗ Chính Mô mới ra công sưu tập được vài trăm bài, viết bài Tựa, đặt tên là Lã Đường di cảo (Bản thảo còn lại của Lã Đường), và hoàn thành vào năm Hồng Thuận thứ 10 (1510) đời vua Lê Tương Dực.
    Sau đây là 6 bài thơ chủ đề về mùa xuân của Tiến sĩ Thái Thuận qua bản dịch của TG Nguyễn Hữu Thăng.
                                  
    初春

    三冬过了一春归
    做暖东风放放吹
    冰雪冻痕铺水面
    乾坤生意上林枝
    柳还旧绿鹦犹静
    桃试新红蝶未知
    日暮乡贯回首望
    草心游子不胜悲
                      
    SƠ XUÂN
    Tam đông quá liễu nhất xuân quy
    Tác noãn đông phong phóng phóng xuy
    Băng tuyết đông ngân phô thủy diện
    Càn khôn sinh ý thượng lâm chi
    Liễu hoàn cựu lục oanh du tĩnh
    Đào thí tân hồng điệp vị tri
    Nhật mộ hương quán hồi thủ vọng
    Thảo tâm du tử bất thắng bi

    Dịch nghĩa :
    ĐẦU XUÂN
    Ba tháng mùa đông đã qua đi, một mùa xuân lại về
    Gió đông đem hơi ấm nhè nhẹ thổi
    Dấu vết băng tuyết đọng phô bày trên mặt nước
    Ý của đất trời gửi gắm trên nhánh cây rừng
    Liễu trở lại màu xanh cũ, con oanh còn im tiếng
    Đào thử màu hồng mới, con bướm chưa hay biết
    Trời tối, ngoảnh đầu trông về quê cũ
    Lòng người con nơi xa buồn thương vô cùng

    Dịch thơ:
    Ba tháng đông qua, xuân lại về
    Gió tràn hơi ấm khắp làng quê
    Nước phô băng tuyết còn trong trẻo
    Chồi ẩn càn khôn hết tái tê
    Liễu lại thắm xanh, oanh lặng hót
    Đào vừa hé đỏ, bướm chưa mê
    Tối trời, ngoảnh lại nhìn quê cũ
    Nỗi nhớ niềm thương bấy não nề .
                                          -----------------------

    梅影

    倒挂斜穿淡又浓
    瑶台纸帐暗相通
    移来窗外风吹后
    横过山前露照中
    东阁传神清画笔
    西湖泻兴苦吟翁
    珠帘仿佛魂无碍
    疑是真人在雪宫

    MAI ẢNH
    Đảo quái tà xuyên đạm hựu hồng
    Dao dài chỉ trướng ám tương thông
    Di lai song ngoại phong xuy hậu
    Hoành quá sơn tiền lộ chiếu trung
    Đông Các truyền thần thanh họa bút
    Tây Hồ tả hứng khổ ngâm ông
    Châu liêm phảng phất hồn vô ngại
    Nghi thị chân nhân tại tuyết cung
    Dịch nghĩa:
    HÌNH BÓNG HOA MAI
    (Hoa nở) ngửa nghiêng ngang dọc, màu nhạt lại màu đậm
    Nối tiếp nhau kín trướng giấy đài ngọc
    Gió đẩy đưa qua lại ngoài cửa sổ
    Ngang qua trước núi trong ánh sương chiếu
    Ở lầu Đông, cái thần của hoa truyền vào ngọn bút vẽ thanh tao
    Ở hồ Tây gợi hứng để nhà thơ ngâm vịnh mãi
    Hương hoa luôn phảng phất cạnh rèm châu
    Ngờ rằng có tiên ở nơi cung tuyết .
    Dịch thơ:
    Chi chít bốn bề khoe sắc tươi
    Đài dao trướng giấy rực trong ngoài
    Đung đưa bên cửa theo làn gió
    Thấp thoáng ánh sương trước núi đồi
    Đông Các họa thư say ngọn bút
    Tây Hồ ngâm vịnh đắm tình người
    Rèm châu phảng phất dường vô tận
    Cung tuyết tiên sa tự cõi trời?                     

    Chú thích:
    -Đông Các (lầu Đông): Theo tứ thơ Đỗ Phủ “ Đông các quan mai động thi hứng - hoàn như Hà Tổn tại Dương Châu” (Nơi gác Đông xem mai, gợi hứng thơ, không khác gì Hà Tổn tại Dương Châu): Hà Tổn trồng ở Dương Châu một cây mai, thường ngâm vịnh dưới gốc, sau đổi qua đất Lạc, nhớ Mai xin trở lại Dương Châu, đúng lúc mai nở rộ khiến ông say ngắm suốt ngày.
    - Tây Hồ xưa có rừng mai. Nhà thơ, họa sĩ Lâm Bô làm nhiều thơ, vẽ nhiều tranh về mai,  coi mai như vợ, hạc như con. Ông từng vào rừng thưởng hoa bị lạc, trở thành giai thoại.
    - Cung tuyết : Chỉ cung của tể tướng Vương Hội, do thời trẻ từng có bài thơ vịnh mai “ Tuyết trung vị luận điều canh sự - tiên hướng bách ba đầu thượng khai” (trong tuyết chưa vội bàn đến làm canh ngon, trước hết hãy nhìn phía trăm hoa nở đầu cành).
    -----------------------   

    春日

    重重帘影月斜移
    无人语夜迟
    枕上梦魂谁嗅醒
    杜鹃声在百花枝
    XUÂN NHẬT
    Trùng trùng liêm ảnh nguyệt tà di
    Thích tú vô nhân ngữ dạ trì
    Thẩm thượng mộng hồn thùy khứu tỉnh
    Đỗ quyên thanh tại bách hoa chi
    Dịch nghĩa:
    NGÀY XUÂN
    Bóng rèm cửa lớp lớp lay động theo ánh trăng tà
    Ngồi thêu một mình không có người trò chuyện, thấy đêm dài
    Hồn mộng trên gối biết có ai đánh thức 
    Tiếng cuốc vọng từ cành trăm hoa
    Dịch thơ:
    Trăng đưa lớp lớp bóng rèm
    Ngồi thêu cô quạnh thấy đêm sao dài
    Hồn mơ say tỉnh cùng ai
    Bâng khuâng tiếng cuốc gọi ngoài khóm hoa.
    -----------------------

    春感

    乾始坤生共到头
    丝毫未报我心愁
    梅花十二楼台梦
    草色三千世界愁
    鬓雪东风吹不散
    泪珠夜雨滴空流
    此身此日将何似
    浩浩长江泛泛舟

    XUÂN CẢM
    Càn thủy khôn sinh cộng đáo đầu
    Ty hào vị báo ngã tâm ưu
    Mai hoa thập nhị lâu đài mộng
    Thảo sắc tam thiên thế giới sầu
    Mấn tuyết đông phong xuy bất tán
    Lụy châu dạ vũ trích không lưu
    Thử thân thử nhật tương hà tự
    Hạo hạo trường giang biếm biếm châu

    Dịch nghĩa:
    CẢM XÚC MÙA XUÂN
    Từ khi trời đất sinh ra cho tới nay
    Chưa hề báo đáp được (công ơn cha mẹ)- điều ta phiền muộn
    Mười hai tầng lầu chỉ là giấc mộng dưới gốc cây hoa mai
    Ba nghìn thế giới  sắc cỏ xanh vẫn đầy sầu muộn
    Tóc trắng như tuyết, gió đông thổi không tan
    Nước mắt như mưa đêm chảy mãi
    Thân này ngày này cứ như vậy hay sao?
    Sông dài mênh mông, thuyền cứ lênh đênh vô định.
             
    Dịch thơ:     
    Trời đất sinh ra hỏi đến giờ
    Ơn dày chưa trả, những buồn lo
    Lâu đài hoa lệ đều hoài mộng
    Thế giới xanh rờn chỉ ước mơ
    Gió chẳng thổi tan đầu điểm tuyết
    Lệ sao tuôn chảy mắt sa mưa 
    Vật vờ cuộc sống trôi ngày tháng
    Thuyền cứ lênh đênh chẳng bến bờ.
                                         
    Chú thích:
    - Càn khôn: Quẻ càn, quẻ khôn trong kinh dịch, chỉ trời đất, cha mẹ.
    - Tam thiên thế giới (ba ngàn thế giới): Theo giáo lý nhà Phật, trong vũ trụ có ba ngàn thế giới, thế giới người ta đang sống gọi là cõi Ta bà
    -----------------------

    春暮
                                                             
    百年身世嘆浮苹
    春去誰能不老成
    流水橋邊楊柳影
    夕陽江上鷓鴣聲
    月於煙樹雖無分
    風與天香尚有情                         
    九十韶光容易過
    草心游子苦難平

    XUÂN MỘ
    Bách niên thân thế thán phù bình
    Xuân khứ thùy năng bất lão thành
    Lưu thủy kiều biên dương liễu ảnh
    Tịch dương giang thượng giá cô thanh
    Nguyệt ư yên thụ tuy vô phận
    Phong dữ thiên hương thượng hữu tình                         
    Cửu thập thiều quang dung dị quá
    Thảo tâm du tử khổ nan bình.         
                               
    Dịch nghĩa:
    CHIỀU XUÂN
    Thân thế trăm năm than cho kiếp bèo nổi
    Xuân đi rồi có ai không thành người già
    Bên cầu nước chảy in bóng dương liễu
    Trên sông chiều tà tiếng gà gô (đa đa) não nuột
    Trăng lồng trong khói cây tuy không có phận gì
    Gió quyện hương trời vẫn có tình với nhau
    Chín chục tuổi xuân qua một cách dễ dàng
    Khiến nỗi lòng người con đi xa khó bình lặng được.    
                              
    Dịch thơ:     
    Thân thế trăm năm kiếp nổi trôi
    Xuân qua ai tránh khỏi già đời
    Bên cầu nước chảy soi hình liễu
    Dưới bến đa kêu não dạ người
    Trăng dẫu hững hờ buông tán lá
    Gió còn xao xuyến quyện hương trời 
    Thiều quang chín chục qua sao nhẹ
    Day dứt cõi lòng mãi chẳng nguôi

              Chú thích:
                - Du tử (người con đi xa): Mượn từ trong bài thơ “Du tử ngâm” của Mạnh Giao “Từ mẫu thủ trung tuyến, du tử thân thượng y” (Sợi chỉ trong tay mẹ hiền, tấm áo trên mình người con đi nơi xa) .
                - Thảo tâm (lòng cỏ) : Cũng mượn từ bài thơ trên : “Thuỳ ngôn thốn thảo tâm, báo đắc tam xuân huy” (Ai bảo rằng tấc lòng cỏ, báo đền dược đức sáng ba xuân) .
    -----------------------


    春晚
    参差野树暮烟笼
    四顾微茫夕照中
    歌管楼台芳草雨
    秋千庭院落花风
    诗书醉我三杯酒
    岁月惊人两鬓逢
    云阙未应甘酯断
    故乡江上见来鸿


    XUÂN VÃN
    Sâm si dã thụ mộ yên lung
    Tứ cố vi mang tịch chiếu trung
    Ca quản lâu đài phương thảo vũ
    Thu thiên đình viện lạc hoa phong
    Thi thư túy ngã tam bôi tửu
    Tuế nguyệt kinh nhân lưỡng mấn bồng
    Vân khuyết vị ưng cam chỉ đoạn
    Cố hương giang thượng kiến lai hồng

    Dịch nghĩa:
    HOÀNG HÔN MÙA XUÂN
    Khói chiều tỏa trên cây cao cây thấp ngoài đồng
    Bốn bề  mờ ảo trong ánh hoàng hôn
    Tiếng ca tiếng sáo dìu dặt trong lâu đài, mưa rơi trên cỏ thơm
    Cây đu trong sân đu đưa, gió thổi hoa rụng
    Thơ phú thư pháp làm ta say cùng ba chén rượu
    Năm tháng làm ta kinh sợ tóc rối như cỏ bồng
    Chốn cửa rồng chưa đành lòng ra về vì ngọt bùi (dâng cha mẹ) bị đứt
    Trên sông chợt thấy con chim hồng từ quê hương bay đến

    Dịch thơ:
    Bảng lảng khói chiều cây nội đồng
    Hoàng hôn mờ ảo phủ mênh mông
    Người ca, sáo thổi, mưa trên cỏ
    Gió cuốn, hoa tàn, đu liệng không
    Người đắm thi thư say túy lúy
    Tóc qua năm tháng rối lung tung
    Ngọt bùi cửa khuyết lòng chưa thỏa
    Quê mẹ chim hồng thoáng mặt sông.
    -----------------------

    伤春

    水流东逝日西奔
    九十韶光几见存
    雨暗云埋芳草渡
    莺愁燕惨落花村
    浮生易悟南华梦
    乐事谁同北海樽
    江上不堪回首望
    烟波渺渺又黄昏

    THƯƠNG XUÂN
    Thủy lưu đông thệ nhật tây bôn
    Cửu thập thiều quang kỷ kiến tồn
    Vũ ám vân mai phương thảo độ
    Oanh sầu yến thảm lạc hoa thôn
    Phù sinh dị ngộ Nam Hoa mộng
    Lạc sự thùy đồng Bắc Hải tôn
    Giang thượng bất kham hồi thủ vọng
    Yên ba diếu diếu hựu hoàng hôn

    Dịch nghĩa:
    THƯƠNG XUÂN
    Nước chảy xuôi về đông, mặt trời chạy về tây
    Chín chục thiều quang (thời thanh xuân) còn được bao lâu nữa?
    Mưa và  mây u ám bến đò cỏ thơm
    Yến oanh sầu thảm nơi thôn xóm hoa rụng
    Sống phù phiếm dễ lầm giấc mộng của Nam Hoa
    Cảnh vui khó ai bằng được Bắc Hải
    Trên sông ngoảnh đầu lại lòng buồn không chịu nổi
    Khói sóng mờ mờ rồi trời chạng vạng tối

    Dịch thơ:
    Mặt trời cứ lặn, nước trôi xuôi
    Thấm thoắt xuân xanh sắp héo rồi
    Mưa ám mây che bờ cỏ ngát
    Oanh buồn yến thảm xóm hoa rơi
    Nam Hoa mơ mộng nơi phù phiếm!
    Bắc Hải nồng say chốn thỏa chơi !
    Ngoảnh lại trên sông lòng tủi khổ
    Mịt mù khói sóng tối tăm trời.            

    Chú thích:
    - Nam Hoa mộng: Giấc mộng Nam Hoa. Theo sách Nam Hoa của Trang Chu: Trang Chu mơ thấy mình hóa bướm, khi tỉnh ngỡ ngàng không biết mình nằm  mơ hóa bướm hay bướm mộng hoá ra mình.
    - Bắc Hải tôn: Chén rượu của Bắc Hải, tên hiệu của Khổng Dung, thời Hậu Hán, tính hào hoa, luôn đông khách, chén rượu không mấy lúc trống không.

    donthu.org


      Hôm nay: 27th April 2024, 23:23