Về mặt di tích mà nói thì 2 nhà bia Tiến sĩ ở 2 bên giếng Thiên Quang là nơi bảo tồn những di tích quý nhất của cả khu di tích lịch sử này. 82 tấm bia Tiến sĩ hiện còn có giá trị về nhiều mặt. Đây là những tư liệu văn tự bản gốc duy nhất được lưu giữ tại chỗ, liên tục kể từ khi được dựng.
- nhà sử học có thể tìm thấy ở đây những tư liệu về lịch sử giáo dục, về những tên tuổi gắn bó với lịch sử dân tộc, quê quán, danh tính những bậc nhân tài được ghi cụ thể, chính xác thông qua đó có thể xác định tuổi cho nhiều di tích ở những nơi không ghi niên đại.
- nhà địa lý có thể tra cứu những địa danh cũ để tìm ra những vùng đất cổ liên quan đến thời hiện tại.
- nhà nghiên cứu triết học có thể tìm ở đây những chứng cứ để xác định vai trò của Nho giáo ở Việt Nam
- những người Việt Nam ở khắp nơi cũng tới đây tìm tên họ một vị tổ nào đó thuộc dòng họ nhà mình xưa đã có tên trong khoa bảng
- đây còn là những tư liệu có hệ thống liên tục, ít nhất cũng trong vòng 3 thế kỷ (từ 1484 tới 1780) về kỹ thuật điêu khắc đá. Nhà nghiên cứu mỹ thuật và các nghệ sĩ tạo hình có thể từ những hình dáng bia, rùa, hoa văn và các mô típ chạm khắc trên bia mà tìm ra tinh hoa của nghệ thuật dân tộc để phát huy, áp dụng vào những sáng tạo hiện đại.
- đã có nhiều bài nghiên cứu viết về bia Tiến sĩ, song việc khai thác tư liệu của 2 nhà bia vẫn còn tiếp tục. Các nhà khoa học đều cho rằng văn bia tiến sĩ xứng đáng là pho "sử đá" có nhiều giá trị độc đáo và hiếm có về văn hóa, lịch sử, nghệ thuật chế tác... không chỉ với Việt Nam mà cả thế giới.
Xem thêm tại wiki
Trải qua gần 1000 năm lịch sử, Văn Miếu- Quốc Tử Giám vẫn giữ được vẻ cổ kính với đặc điểm kiến trúc của nhiều thời đại và là một trong những di tích lịch sử văn hóa tiêu biểu và quan trọng bậc nhất của Thủ đô và cả nước…
Văn Miếu được xây dựng vào năm 1070 dưới thời vua Lý Thánh Tông, là nơi thờ Khổng Tử, các bậc Hiền triết của Nho giáo và Tư nghiệp Quốc tử giám Chu Văn An, người thầy đạo cao, đức trọng của nền giáo dục Việt Nam. Quốc Tử Giám được xây dựng năm 1076 dưới triều vua Lý Nhân Tông, là nơi đào tạo nhân tài cho đất nước, là trường đại học đầu tiên ở nước ta.Kiến trúc VM-QTG
VM-QTG nằm phía Nam thành Thăng Long (nay là Hà Nội), quay mặt về hướng Nam với tổng diện tích 55.027m2 gồm Hồ Văn, vườn Giám và Nội tự. Nội tự được chia làm năm khu vực: Khu thứ nhất từ cổng Văn Miếu tới cổng Đại Trung; khu thứ hai nổi bật với Khuê Văn Các, một công trình kiến trúc độc đáo được xây dựng năm 1805 với kiến trúc gỗ, bốn mặt có cửa sổ tròn và những con tiện tỏa ra tứ phía tượng trưng cho hình ảnh sao Khuê tỏa sáng; khu thứ ba là nơi lưu giữ bia tiến sĩ được dựng từ năm 1484; khu thứ tư thờ Khổng tử và bài vị của 72 vị học trò xuất sắc của Khổng Tử và thờ Chu Văn An, Tư nghiệp Quốc Tử Giám; khu thứ năm là nhà Thái Học, vốn là Quốc Tử Giám xưa, trường đại học quốc gia đầu tiên ở nước ta.
Các công trình kiến trúc của Văn Miếu được dựng bằng gỗ lim, gạch đất nung, ngói mũi hài theo phong cách nghệ thuật của các triều đại Lê, Nguyễn và những hàng cây cổ thụ hàng trăm năm tuổi.
Nhằm tôn vinh truyền thống văn hóa giáo dục của Việt Nam, công trình Thái Học được xây dựng vào năm 2000 trên nền của QTG xưa (Thái Học đường) với diện tích mặt bằng hơn 6000m2
Học tập tại QTG
Việc tổ chức giảng dạy, học tập tại QTG bắt đầu từ 1076 dưới thời nhà Lý, phát triển và hoàn thiện dưới thời nhà Lê, thế kỷ thứ XV. Đứng đầu QTG là Tế tửu (hiệu trưởng) và Tư Nghiệp (Hiệu phó), phụ trách việc giảng dạy có các chức: Giáo thụ, Trực giảng, Trợ giáo và Bác sĩ.
Giám sinh (học trò) chủ yếu là những người đã đỗ kỳ thi Hương, qua một kỳ kiểm tra ở Bộ Lễ sẽ được vào QTG để học tập chuẩn bị cho kỳ thi Hội và thi Đình. Giám sinh được chia làm ba hạng: Thượng xá, Trung xá và Hạ xá. Thời gian học tập tối thiểu là 3 năm và tối đa là 7 năm. Quá trình học tập chủ yếu nghe giảng sách, bình văn và làm văn.
Các thí sinh sau khi trải qua 4 kỳ thi Hội (thi kinh nghĩa; thi chế, chiếu, biểu; thi thơ phú; thi văn sách) mới được vào thi Đình. Thi Đình được tổ chức ở Hoàng Cung, do đích thân nhà vua ra đề và chấm duyệt lần cuối. Những người đỗ thi Đình được xếp thành 3 hạng: Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ (Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa); Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) và Đệ tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân (Tiến sĩ).
Lịch sử khoa cử Việt Nam bắt đầu từ 1075 đến khoa thi Nho học cuối cùng năm 1919 có 2898 người đỗ Đại Khoa. Khoa đỗ ít nhất chỉ lấy 3 người, khoa đỗ nhiều nhất lấy 62 người. Người đỗ trẻ tuổi nhất là Trạng nguyên Nguyễn Hiền (khoa thi 1247) khi mới 13 tuổi, người đỗ cao tuổi nhất là Tiến sĩ Quách Đồng Dần (khoa thi 1634) khi đã 68 tuổi.
Bia Tiến sĩ
Một trong những di tích nổi tiếng của VM-QTG là 82 tấm bia Tiến sĩ, ghi họ tên, quê quán của 1307 vị Tiến sĩ của 82 khoa thi từ 1442- 1779 gồm 81 khoa triều Lê và 1 khoa triều Mạc. Bia Tiến sĩ khắc trên loại đá màu xanh, kích thước không đều nhau được trạm khắc hoa văn tinh xảo. Bia Tiến sĩ khoa Nhâm Tuất niên hiệu Đại Bảo thứ 3 (1442) nêu rõ tầm quan trọng của việc đào tạo nhân tài và khuyến khích kẻ sĩ: “Hiền tài là nguyên khí quốc gia. Nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh mà hưng thịnh, nguyên khí suy thì thế nước yếu mà thấp. Vì thế, các bậc đế vương, thánh minh chẳng ai không coi việc kén chọn kẻ sĩ, bồi dưỡng nhân tài, vun trồng nguyên khí quốc gia làm công việc cần kíp... Vì vậy, lại cho khắc đá để dựng ở cửa Thái Học cho kẻ sĩ bốn phương chiêm ngưỡng, hâm mộ mà phấn chấn, rèn luyện danh tiết, hăng hái tiến lên giúp rập Hoàng gia. Há phải chỉ là chuộng hư danh, sính hư văn mà thôi đâu”.
Bia được đặt trên lưng rùa. Rùa là một trong bốn linh vật: Long, Ly, Qui, Phượng. Rùa sống lâu, có sức khỏe nên việc đặt bia Tiến sĩ trên lưng rùa đá thể hiện sự tôn trọng hiền tài và trường tồn mãi mãi.
VM-QTG ngày nay
Di tích VM-QTG đã tồn tại được hơn 900 năm, là di tích được xếp hạng di tích lịch sử văn hóa từ đợt đầu (1962). Tháng 4/1988, Trung tâm Hoạt động văn hóa khoa học VM-QTG được thành lập với nhiệm vụ quản lý, bảo tồn, lập qui hoạch tu bổ tôn tạo di tích nhằm phục vụ khách tham quan nghiên cứu và là nơi để các nhà khoa học gặp gỡ, trao đổi, thảo luận nhằm huy động lực lượng trí thức trong cả nước.
Hàng năm, vào các dịp tại VM-QTG vẫn diễn ra các hoạt động văn hóa, lễ hội như tổ chức dâng hương các bậc thánh hiền, tổ chức cờ người, văn nghệ dân tộc, bình thơ, triển lãm thư pháp, giới thiệu thơ xuân...
Năm 1997, tết Nguyên Đán Đinh Sửu, tết đầu tiên thực hiện lệnh cấm đốt pháo, VM-QTG đã là nơi được vinh dự dùng tiếng trống để báo hiệu giao thừa. Nơi đây cũng là địa điểm khởi dựng dàn trống hội Thăng Long và thực hiện lễ khai mạc chương trình trống hội Thăng Long ở thời điểm giao thời giữa thiên niên kỷ tết dương lịch năm 2000.
Trong kế hoạch tiếp theo, VM-QTG đang từng bước thí điểm các chương trình văn hóa mang đậm nét dân tộc như CLB “Tao đàn thơ Thăng Long”, CLB “Nhà giáo Nhân dân- Nhà giáo Ưu tú”, xây dựng “Bảo tàng danh nhân Hà Nội”...
Dân Trí